Dự thảo Nghị định về chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách hỗ trợ, thu hút đối với nhà giáo đang được thầy cô trên cả nước quan tâm bàn thảo.

Theo dự thảo, giáo viên trong các cơ sở công lập từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giảng viên đại học đã có thêm hệ số lương đặc thù.
Tuy nhiên, việc giáo viên chưa đạt chuẩn có hệ số lương đặc thù cao nhất (1,6), mức chênh khá xa so với giáo viên đạt chuẩn dẫn đến theo tính toán có thể lương cao hơn cả người đạt chuẩn.
Hệ số lương đặc thù không phải phụ cấp như trước đây, mà là một phần chính cấu thành trong cách tính lương mới. Cụ thể, lương = hệ số lương x hệ số lương đặc thù x mức lương cơ sở. Nghĩa là, mỗi thay đổi nhỏ ở hệ số lương đặc thù đều tạo ra sự chênh lệch đáng kể trong thu nhập thực tế.
Hệ số lương đặc thù của nhà giáo từ 1.1 đến 1.6.
Ví dụ đối với giáo viên tiểu học, hệ số lương đặc thù dự kiến như sau:
Đối tượng áp dụng | Hệ số lương áp dụng | Hệ số lương đặc thù |
Giáo viên tiểu học cao cấp | Áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3.2 (từ hệ số lương 5,75) | 1,2 |
Giáo viên tiểu học chính | Áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2.2 (từ hệ số lương 4,00) | 1,3 |
Giáo viên tiểu học | Áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1 (từ hệ số lương 2,34) | 1,45 |
Giáo viên tiểu học chưa đạt trình độ chuẩn (trình độ cao đẳng) | Áp dụng hệ số lương của viên chức loại A0 (từ hệ số lương 2,10) | 1,6 |
Giáo viên tiểu học chưa đạt trình độ chuẩn (trình độ trung cấp) | Áp dụng hệ số lương của viên chức loại B (từ hệ số lương 1,86) | 1,6 |
Đáng nói ở đây, giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ theo quy định vốn được coi là đang trong giai đoạn cần hoàn thiện chuyên môn lại được hưởng mức hệ số cao nhất là 1,6. Trong khi đó, người đã có bằng đại học, thậm chí đã được thăng hạng lên cao hơn, lại nhận hệ số đặc thù thấp hơn gây băn khoăn.
Người viết dẫn chứng một vài trường hợp cụ thể. Một giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng (chưa đạt chuẩn), hệ số lương 4.89, nhân với hệ số lương đặc thù 1.6 sẽ có thu nhập lên tới 18.308.160 đồng (chưa tính các khoản phụ cấp khác).
Trong khi đó, một giáo viên tiểu học đạt chuẩn, trình độ đại học, hệ số lương cũng là 4.98, nhưng nhân với hệ số đặc thù chỉ 1.45, thì tổng lương chỉ còn 16.897.140 đồng.
Thậm chí, giáo viên chính, bậc 5.02, nhân với hệ số đặc thù 1.3 chỉ được 15.270.840 đồng, mới bằng giáo viên trình độ trung cấp có hệ số lương 4.06 x 1.6 = 15.200.640 đồng.
Đây mới là lương cơ bản, sau khi nhân lương cơ bản với phụ cấp nghề và phụ cấp thâm niên thì mức chênh lệch giữa tổng thu nhập của một số giáo viên chưa đạt chuẩn với giáo viên đã đạt chuẩn và thăng hạng có thể có chênh lệch cao hơn nữa.
Ví dụ, giáo viên tiểu học cùng có 30 năm trong nghề (thâm niên 28%), cùng ở bậc lương cuối cùng. Giáo viên chưa đạt chuẩn sẽ có 4.89 x 2.34 x1.6 = 18.308.160 đồng (chưa tính phụ cấp thâm niên, ưu đãi nghề).
Giáo viên tiểu học đạt chuẩn cùng có 30 năm trong nghề (thâm niên 28%), cũng với hệ số lương cuối cùng 4.98 sẽ có tiền lương 4.98 x 2.34 x 1.3 =16.897.140 đồng (chưa tính phụ cấp thâm niên, ưu đãi nghề). Mức chênh lệch tiền lương giữa 2 giáo viên là 1.411.020 đồng.
Mức trên nếu tính cả phụ cấp ưu đãi nghề 35% và 28% phụ cấp thâm niên thì mức chênh lệch tổng thu nhập của 2 giáo viên này sẽ cao hơn. Với cách thiết kế hệ số đặc thù chênh lệch nhiều như vậy là chưa hợp lý.
Theo người viết, ban soạn thảo nên tính toán thiết kế hệ số đặc thù theo hướng phù hợp hơn. Làm sao để mức độ chênh lệch không quá lớn, tránh giáo viên đạt chuẩn lại lương thấp hơn giáo viên chưa đạt chuẩn. Tất nhiên, theo Nghị định 71/2020/NĐ-CP quy định lộ trình thực hiện nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên chưa đạt chuẩn sẽ có lộ trình cụ thể để đạt chuẩn theo quy định. Nhưng dù vậy, với cách thiết kế hệ số lương đặc thù như hiện tại của dự thảo, nguyên tắc công bằng chưa được đảm bảo, gây tâm tư cho thầy cô đã nỗ lực đạt chuẩn.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.