Trên thế giới, việc quy định chức danh giáo sư, phó giáo sư thường rõ ràng về vị trí, vai trò, tiêu chuẩn và chế độ đãi ngộ.
Thông lệ quốc tế việc phân định “danh hiệu danh dự” với “chức danh khoa học” kèm theo trách nhiệm rất rõ ràng. Việc làm đó nhằm giúp tôn vinh, đề cao uy tín học thuật cũng như sử dụng đội ngũ trí thức bậc cao một cách hiệu quả.
Tại Việt Nam, quy trình xét duyệt, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư trong thời gian qua đã từng bước cải tiến với những bước đi rất chắc chắn, nhằm góp phần đảm bảo chất lượng cũng như hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, các quy định hiện tại vẫn phải tiếp tục nghiên cứu cải tiến, nhất là cần là cần làm rõ mối quan hệ giữa danh hiệu học thuật để tôn vinh với chức danh khoa học gắn với trách nhiệm cụ thể.

Danh hiệu và chức danh
Trong hệ thống học thuật, có ba khái niệm khác nhau gồm “danh hiệu” (title), “chức danh” (academic rank/title) và “chức vụ” (position). Ở Việt Nam còn có hiểu và vận dụng khác nhau, nên đã dẫn đến nhiều tranh luận, thậm chí gây ra những bất cập trong quản lí và chính sách đãi ngộ.
Danh hiệu khoa học
Danh hiệu khoa học thường mang tính tôn vinh, không phụ thuộc vào vị trí công tác hay nhiệm kì. Trong bối cảnh giáo dục đại học, danh hiệu thường gắn với những thành tựu khoa học xuất sắc và uy tín chuyên môn vượt trội.
Ở một số nước, danh hiệu “Giáo sư danh dự” (Emeritus Professor) hay “Viện sĩ” (Academician) được trao cho những cá nhân có đóng góp lớn trong học thuật, ngay cả khi họ đã về hưu hoặc không còn giữ chức vụ trong trường đại học. Điều này khác với chức danh khoa học mang tính nhiệm kì.
Ở Việt Nam trước đây, giáo sư, phó giáo sư được gọi là “học hàm” được xem như một danh hiệu khoa học, được ghi nhận thông qua thành tích khoa bảng xuất sắc và mang tính tôn vinh suốt đời, không phụ thuộc vào nhiệm kì công tác.
Chức danh khoa học
Chức danh giáo sư, phó giáo sư ở nhiều nước trên thế giới không phải là danh hiệu khoa học có tính vĩnh viễn mà chỉ là một chức danh khoa học do một trường đại học bổ nhiệm. Khi cá nhân không còn làm việc tại trường đó, chức danh này cũng không còn hiệu lực.
Ở nhiều nước tồn tại các chức danh khoa học như Assistant Professor (Trợ lí giáo sư), Associate Professor (Phó giáo sư), Professor (Giáo sư) và tất cả đều chỉ có giá trị trong một trường đại học nhất định. Khi rời khỏi trường, cá nhân đó không còn được sử dụng chức danh khoa học này, mà chỉ còn học vị tiến sĩ (PhD).
Ở Việt Nam theo quy định hiện nay, về cơ bản giáo sư, phó giáo sư đã là chức danh khoa học, được Hội đồng Giáo sư nhà nước công nhận đạt tiêu chuẩn, thủ trưởng các cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm theo nhiệm kì có thời hạn và có thể được bổ nhiệm lại. Tuy nhiên, cách hiểu và cách gọi vẫn còn chưa triệt để; chế độ, chính sách liên quan cũng chưa thực sự rạch ròi. Và nhiều văn bản hành chính vẫn ghi “học hàm” là không chính xác.
Chức vụ
Chức vụ để chỉ một vai trò lãnh đạo, quản lí tại một tổ chức, có thời hạn nhất định và thường đi kèm với quyền hạn, trách nhiệm, cũng như chế độ đãi ngộ phù hợp.
Trong môi trường đại học, các chức vụ có thể bao gồm: (1) Trưởng khoa, Phó trưởng khoa, (2) Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, (3) Giám đốc trung tâm nghiên cứu…
Khi một giáo sư, phó giáo sư được bổ nhiệm vào các chức vụ này, họ được hưởng phụ cấp chức vụ. Nhiều khi chưa có sự nhất quán trong hiểu và làm, dẫn đến gán ghép hoặc lệ thuộc giữa chức vụ và chức danh.
Một người là giáo sư nhưng không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lí và ngược lại một hiệu trưởng không nhất thiết phải là giáo sư, phó giáo sư...
Quyền lợi và chế độ
Nếu chức danh giáo sư, phó giáo sư chỉ có hiệu lực trong một trường đại học, thì các chính sách về lương và đãi ngộ phải do trường quyết định.
Nếu giáo sư, phó giáo sư có thành tích xuất sắc sẽ được khen và thưởng theo quy định; và khi giáo sư, phó giáo sư được giao các nhiệm vụ quan trọng sẽ được hưởng phụ cấp trách nhiệm; còn nếu họ được bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lí như Hiệu trưởng, Trưởng khoa, Giám đốc viện… thì họ sẽ được hưởng phụ cấp chức vụ tương ứng với trọng trách mà họ đảm nhiệm.
Và như vậy sẽ không còn nhập nhằng giữa quyền lợi của chức danh khoa học và chức vụ quản lí. Không nên mặc định rằng một giáo sư phải giữ vai trò quản lí, hay một người giữ chức vụ quản lí nhất thiết phải có chức danh giáo sư.
Việc phân định rạch ròi giữa danh hiệu, chức danh và chức vụ trong giới học thuật là điều kiện tiên quyết để xây dựng một môi trường giáo dục đại học minh bạch, công bằng và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế.
Khi đó, đội ngũ giáo sư, phó giáo sư cũng sẽ được bổ nhiệm đúng người, đúng việc, tạo động lực để họ cống hiến thực chất cho nền khoa học cũng như giáo dục và đào tạo của nước nhà.
Công nhận, bổ nhiệm và xếp hạng
Hiện nay, hệ thống công nhận, bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư tại Việt Nam vẫn tồn tại một số bất cập trong cả quy trình xét duyệt, tiêu chí đánh giá, cũng như cơ chế bổ nhiệm và đãi ngộ.
Ngoài ra, việc bổ nhiệm danh mục nghề nghiệp Giảng viên cao cấp và xếp hạng viên chức hạng I cũng bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lí.
Về thủ tục công nhận và bổ nhiệm
Quy trình xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư hiện nay vẫn dựa nhiều vào các tiêu chí mang tính định lượng, như số lượng bài báo, số sách xuất bản, số tiết giảng dạy, nhưng chưa đánh giá sâu về tác động khoa học, chất lượng nghiên cứu hay uy tín trong cộng đồng chuyên môn.
Điều này dẫn đến tình trạng:
(1) Một số người đạt chuẩn giáo sư, phó giáo sư chủ yếu nhờ số lượng bài báo nhưng thiếu các công trình có giá trị thực tiễn hoặc tầm ảnh hưởng lớn.
(2) Một số người đạt chuẩn nhưng chưa có đủ trải nghiệm giảng dạy, chưa thực sự là nhà sư phạm giỏi.
(3) Chưa có cơ chế đánh giá mức độ đóng góp vào đào tạo, hướng dẫn nghiên cứu sinh và chuyển giao tri thức cho cộng đồng; chủ yếu vẫn dựa trên số năm giảng dạy, số tiết giảng; số lượt hướng dẫn thạc sĩ, nghiên cứu sinh…
Hội đồng Giáo sư nhà nước có vai trò quyết định trong việc công nhận đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư trên phạm vi cả nước.
Mặc dù điều này giúp đảm bảo tính thống nhất, nhưng lại tạo ra một quy trình cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong việc công nhận theo đặc thù từng ngành, từng trường.
Ở nhiều nước, giáo sư, phó giáo sư thường do các cơ sở giáo dục đại học trực tiếp bổ nhiệm dựa trên nhu cầu và năng lực thực tế của ứng viên, không có một hội đồng tập trung duy nhất quyết định.
Có lẽ đã đến lúc cần uỷ quyền cho một số đại học quốc gia và đại học vùng có uy tín, đủ năng lực thực hiện thí điểm xét duyệt, công nhận và bổ nhiệm… dựa trên các tiêu chí do Hội đồng Giáo sư nhà nước công bố.
Đồng thời, việc công nhận cũng nên tham khảo sự đánh giá của đồng nghiệp quốc tế, các hội đồng khoa học ngành,… thay vì chỉ dựa vào các thủ tục mang tính hành chính.
Về bổ nhiệm chức danh và xếp hạng viên chức
Bên cạnh chức danh khoa học, chúng ta còn có hệ thống phân loại viên chức theo hạng từ I đến III.
Trong đó, chức danh nghề nghiệp là Giảng viên cao cấp tương ứng với viên chức hạng I, thường liên quan với chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Hiện nay, có những người đạt tiêu chuẩn và được bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư nhưng chưa hẳn đã là giảng viên cao cấp và không phải là hạng I, tất nhiên là không được hưởng chế độ tương ứng.
Ngược lại, có một số giảng viên cao cấp (hạng I) nhưng chưa được công nhận giáo sư, phó giáo sư.
Về quyền lợi thì họ được hưởng lương hạng I, nhưng về danh tiếng, vị trí thì đơn vị sử dụng lao động không thể sử dụng để chủ trì mở ngành, giữ ngành đào tạo trình độ tiến sĩ...
Về quyền lợi và sự đóng góp
Hiện nay, quyền lợi của giáo sư, phó giáo sư chưa thực sự gắn liền với trách nhiệm và đóng góp của họ. Nhiều người làm khoa học giỏi có xu hướng lựa chọn vị trí lãnh đạo quản lí. Có lẽ phần nhiều do mức thu nhập chưa tương xứng với vị trí đảm nhiệm. Mặt khác, chưa có sự phân định giữa giáo sư, phó giáo sư có thành tích nổi bật với những người chỉ đạt "chuẩn" tối thiểu.
Một người có rất nhiều công trình có giá trị thực tế cao vẫn hưởng chế độ ngang bằng với người chỉ vừa đủ chuẩn. Và từ đó cũng chưa có chính sách giữ chân người giỏi ở lại với ngành giáo dục và khoa học, chứ chưa nói đến việc giữ lại với chính cơ sở giáo dục đại học mà họ đã trưởng thành. Trong bối cảnh hiện nay, rất cần có sự thay đổi thực chất ở một số điểm sau:
Một là cần tạo cơ chế tài chính linh hoạt hơn, để các trường đại học công lập có quyền chi trả lương, phụ cấp cho giáo sư, phó giáo sư dựa trên năng lực thực tế, thay vì áp mức chung cho tất cả.
Hai là bên cạnh việc tập trung các tiêu chí đánh giá đạt tiêu chuẩn rất cần thiết lập hệ thống đánh giá chất lượng đóng góp theo từng giai đoạn, để từ đó có chế độ, chính sách đãi ngộ tốt hơn.
Ba là cần có cơ chế hỗ trợ điều kiện làm việc tốt hơn, bao gồm tài trợ nghiên cứu, hợp tác quốc tế, đào tạo thế hệ sau, thay vì chỉ tập trung vào lương bổng.
Tóm lại, một nền giáo dục đại học mạnh không thể thiếu những chính sách minh bạch, công bằng và tiệm cận chuẩn mực quốc tế trong việc công nhận và bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư.
Việc làm rõ ràng ranh giới giữa danh hiệu, chức danh và chức vụ không chỉ đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ trí thức, mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Quan trọng hơn, chính sách đãi ngộ và cơ chế quản lí cần thực sự tạo động lực để giáo sư, phó giáo sư cống hiến, phát huy vai trò dẫn dắt trong đổi mới sáng tạo.
Đây không chỉ là một yêu cầu cấp thiết mà còn là nền tảng để Việt Nam xây dựng một hệ thống giáo dục đại học xứng tầm khu vực và thế giới.