Nhu cầu lao động cao, sinh viên học Công nghệ sinh học nhiều cơ hội phát triển

06/06/2025 06:22
ĐÀO HIỀN
Theo dõi trên Google News

GDVN - Với tính ứng dụng cao, ngành học đang trở thành ngành nghề có triển vọng phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, các ngành liên quan đến công nghệ ngày càng được chú trọng và đánh giá cao. Trong đó, ngành Công nghệ sinh học giữ vai trò thiết yếu trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, y dược, môi trường và công nghiệp thực phẩm.

Ngành học chiến lược trong kỷ nguyên phát triển bền vững

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thúy Hạnh – Phó Trưởng khoa phụ trách đào tạo, Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh: Trước những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, chăm sóc sức khỏe và nhu cầu phát triển các nguồn năng lượng bền vững, ngành Công nghệ sinh học đang ngày càng khẳng định vai trò thiết yếu và có tiềm năng phát triển mạnh mẽ, không chỉ trên thế giới mà cả tại Việt Nam.

Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, công nghệ sinh học đã và đang tạo ra những bước tiến vượt bậc, từ nghiên cứu và phát triển thuốc mới, điều trị bệnh bằng y học cá nhân hóa, đến sản xuất vắc-xin cho các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Trong nông nghiệp, công nghệ sinh học giúp cải tiến giống cây trồng theo hướng tăng năng suất, kháng sâu bệnh, chịu hạn tốt và nâng cao giá trị dinh dưỡng. Đồng thời, ngành này đóng vai trò then chốt trong việc tìm ra các giải pháp bền vững cho sản xuất lương thực, xử lý chất thải, và phát triển năng lượng tái tạo.

“Hiện nay, việc tích hợp các công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) với Công nghệ sinh học đang mở ra những hướng đi mới, không chỉ nâng cao hiệu quả ứng dụng mà còn thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo trong khoa học sự sống”, Tiến sĩ Hạnh cho hay.

1.jpg
Ngành Công nghệ sinh học giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Ảnh: VNUA

Nhận thức rõ vai trò chiến lược của ngành Công nghệ sinh học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy phát triển và ứng dụng ngành này. Theo đó, mục tiêu đặt ra là đưa lĩnh vực công nghệ sinh học trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật trọng điểm; thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ sinh học tăng trưởng 50% về quy mô đầu tư và sản lượng; thay thế ít nhất 50% sản phẩm công nghệ sinh học nhập khẩu. Đồng thời đóng góp khoảng 7% vào GDP quốc gia, phục vụ trực tiếp các nhu cầu thiết yếu của xã hội.

Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia có nền công nghệ sinh học phát triển hàng đầu thế giới, là trung tâm sản xuất, dịch vụ thông minh, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á. Khi đó, công nghệ sinh học được kỳ vọng sẽ đóng góp từ 10–15% vào GDP.

Cũng theo Tiến sĩ Hạnh, để hiện thực hóa những mục tiêu lớn nêu trên, bên cạnh các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và tổ chức, Nhà nước đặc biệt chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Công nghệ sinh học. Một trong những định hướng trọng tâm là xây dựng mô hình đào tạo liên thông, xuyên suốt từ bậc phổ thông đến đại học và sau đại học. Các chính sách đào tạo hiện nay tập trung tăng cường liên kết giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động; gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, nhằm đảm bảo chất lượng và số lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển ngành.

Song song đó, việc xây dựng đội ngũ nhà khoa học đầu ngành, hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh đạt chuẩn quốc tế, cũng như đẩy mạnh hợp tác quốc tế và xuất khẩu nhân lực có trình độ cao đang là những chiến lược trọng điểm trong lộ trình phát triển dài hạn của ngành Công nghệ sinh học Việt Nam.

2.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thúy Hạnh và sinh viên Khoa Công nghệ sinh học. Ảnh: VNUA

Chương trình đào tạo tham khảo, đối sánh với nhiều chương trình quốc tế

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực trong bối cảnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chuyển đổi xanh, Khoa Công nghệ sinh học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã và đang không ngừng hoàn thiện chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, thực tiễn và hội nhập quốc tế.

Theo chia sẻ của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, chương trình đào tạo ngành Công nghệ sinh học của Khoa tập trung vào hai định hướng chính là Công nghệ sinh học nông nghiệp và Công nghệ sinh dược, dựa trên thế mạnh đặc thù của Học viện. Theo đó, Khoa đã xây dựng hệ thống đào tạo và nghiên cứu gắn với thực tiễn và nhu cầu phát triển bền vững của ngành. Chương trình đào tạo không chỉ được tham khảo, đối sánh với nhiều chương trình quốc tế mà còn thường xuyên được rà soát, cập nhật để phù hợp với điều kiện thực tế trong nước.

Dù vẫn còn một số giới hạn từ khung chương trình chung song Khoa Công nghệ sinh học luôn chủ động tiếp thu ý kiến từ người học và các bên liên quan để điều chỉnh, cải tiến kịp thời chương trình đào tạo. Ngoài ra, các hoạt động trao đổi sinh viên với các trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế cũng mở ra cơ hội lớn cho sinh viên được tiếp cận công nghệ mới, học hỏi mô hình đào tạo tiên tiến và mở rộng tầm nhìn toàn cầu.

3.jpg
Học viện Nông nghiệp Việt Nam sở hữu đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Ảnh: VNUA

Với vai trò là một trong những ngành trọng điểm dẫn đầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, ngành Công nghệ sinh học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam không ngừng khẳng định vị thế trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam và khu vực.

Năm 2021, ngành học đã được Tổ chức Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (ASEAN University Network – AUN) công nhận đạt chuẩn AUN-QA – một trong những bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng uy tín hàng đầu trong khu vực.

Tính đến nay, đội ngũ giảng viên của Khoa gồm có 01 Giáo sư, 07 Phó Giáo sư, 14 Tiến sĩ, 05 Nghiên cứu sinh và nhiều cán bộ hỗ trợ có trình độ cao, trong đó phần lớn được đào tạo tại các quốc gia có nền khoa học – giáo dục tiên tiến như Hoa Kỳ, Úc, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc… Đây chính là nền tảng quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu và hội nhập quốc tế.

Để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường rất chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, học tập. Cô Hạnh cho biết hiện nay, Khoa Công nghệ sinh học đang có hệ thống gồm 10 phòng thí nghiệm phục vụ thực hành, 5 phòng thí nghiệm cấp bộ môn với các định hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ tế bào động vật, công nghệ tế bào thực vật, công nghệ vi sinh, sinh học phân tử, công nghệ sinh học thực vật…

Bên cạnh đó, Khoa còn sở hữu 3 phòng thí nghiệm trọng điểm và 2 phòng thí nghiệm chuyên sâu với sự đầu tư từ các chương trình quốc tế như JICA, SATREPS (Nhật Bản), cùng Trung tâm Bảo tồn và Phát triển nguồn gen cây trồng – nơi thực hiện các nghiên cứu ứng dụng gắn với bảo tồn và phát triển bền vững.

Ngoài các điều kiện sẵn có, cán bộ và sinh viên còn được tiếp cận, thực hành tại các phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO 10725:2017 của Học viện như Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh học Thú y (Vet.BioLab), Phòng thí nghiệm Khoa học và Công nghệ thực phẩm, Viện Sinh học Nông nghiệp, Viện Nghiên cứu và Phát triển nấm ăn – nấm dược liệu, Viện Vi tảo và Dược mỹ phẩm… cũng như các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học xanh – sạch trong sản xuất.

Yêu cầu đặt ra cho nguồn nhân lực lĩnh vực công nghệ sinh học

Với tính ứng dụng cao và phạm vi hoạt động rộng khắp trong nhiều lĩnh vực, ngành Công nghệ sinh học đang trở thành một trong những ngành nghề có triển vọng phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thúy Hạnh cho biết, sau khi tốt nghiệp, sinh viên ngành Công nghệ sinh học có thể đảm nhận nhiều vị trí công việc khác nhau tùy theo định hướng nghề nghiệp và năng lực cá nhân.

Cụ thể, các em có thể trở thành cán bộ kỹ thuật, chuyên viên sản xuất – kinh doanh trong các lĩnh vực như nông nghiệp công nghệ cao, y tế, môi trường hoặc làm việc tại các doanh nghiệp, nhà máy, tổ chức nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.

Bên cạnh đó, sinh viên cũng có thể làm nghiên cứu viên, giảng viên tại các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng hoặc trung tâm khoa học công nghệ. Trên thực tế, có nhiều sinh viên còn lựa chọn công việc liên quan đến kinh doanh thiết bị, vật tư, sản phẩm công nghệ sinh học hoặc tham gia hoạt động giáo dục khoa học ứng dụng, đóng vai trò kết nối giữa công nghệ và thực tiễn đời sống.

Ngoài ra, ngành Công nghệ sinh học còn mang đến nhiều cơ hội nghề nghiệp tại các cơ sở sản xuất, nhà máy và xí nghiệp, nơi sinh viên có thể đảm nhiệm các vai trò như kiểm định chất lượng, nghiên cứu – phát triển sản phẩm, giám sát kỹ thuật hoặc quản lý dây chuyền công nghệ. Sinh viên tốt nghiệp cũng có thể làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến lĩnh vực sinh học và công nghệ sinh học, bao gồm các sở, phòng khoa học và công nghệ, cơ quan công an, quân đội và các tổ chức thuộc hệ thống hành chính công.

Đặc biệt, với nền tảng kiến thức liên ngành vững chắc, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng cao, nhiều sinh viên lựa chọn con đường khởi nghiệp, phát triển các sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, thực phẩm, y sinh hoặc môi trường. Đây là hướng đi giàu tiềm năng, phù hợp với xu thế phát triển xanh, bền vững và nhu cầu đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế hiện đại.

4.jpg
Cơ hội việc làm đối với sinh viên ngành Công nghệ sinh học rất đa dạng. Ảnh: VNUA

Trước sự thay đổi không ngừng từ thị trường lao động, yêu cầu đối với nguồn nhân lực ngành Công nghệ sinh học ngày càng trở nên toàn diện hơn. Theo Tiến sĩ Hạnh, sinh viên và người lao động trong lĩnh vực này không chỉ cần có kiến thức chuyên môn vững chắc và kỹ năng nghề nghiệp thành thạo, mà còn phải được trang bị thêm nhiều năng lực bổ trợ để đáp ứng xu thế mới.

Trước hết, các kỹ năng mềm như giao tiếp hiệu quả, làm việc nhóm, tư duy giải quyết vấn đề và khả năng thích nghi linh hoạt với môi trường làm việc đa dạng là yếu tố không thể thiếu. Bên cạnh đó, khả năng học hỏi liên tục và cập nhật công nghệ mới, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo (AI) vào thực tiễn công việc, đang trở thành yêu cầu bắt buộc trong kỷ nguyên số.

Không dừng lại ở kỹ năng cá nhân, nguồn nhân lực Công nghệ sinh học hiện đại còn cần có tư duy khởi nghiệp, khả năng sáng tạo và đổi mới để phát triển các sản phẩm, mô hình công nghệ mới. Đồng thời, họ cũng phải sẵn sàng chuyển giao công nghệ, hợp tác nghiên cứu và làm việc trong môi trường quốc tế.

Nhằm giúp sinh viên định hướng nghề nghiệp cũng như trau dồi các kỹ năng từ sớm, Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam thường xuyên tổ chức cho sinh viên tham quan thực tế tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu. Đến năm thứ ba hoặc đầu năm tư, sinh viên được tham gia thực tập nghề nghiệp tại các doanh nghiệp hoặc viện nghiên cứu trong nước với thời lượng từ 10 đến 13 tín chỉ (khoảng 3–4 tháng), qua đó tiếp cận quy trình sản xuất và vận hành công nghệ trong các lĩnh vực như nông nghiệp, thực phẩm, y tế, dược phẩm và môi trường.

Trước khi tốt nghiệp, sinh viên thực hiện khóa luận kéo dài 4–6 tháng. Khoa luôn khuyến khích lựa chọn đề tài gắn với thực tiễn tại nơi thực tập nhằm rèn luyện kỹ năng nghiên cứu và mang lại giá trị ứng dụng thực tế.

Bên cạnh đó, Khoa cũng phối hợp với Học viện tổ chức Ngày hội việc làm thường niên, thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đến phỏng vấn, tuyển dụng trực tiếp. Đồng thời, mạng lưới kết nối với các đơn vị đối tác cũng được duy trì nhằm hỗ trợ thực tập, việc làm và định hướng nghề nghiệp cho sinh viên.

Với chương trình đào tạo gắn lý thuyết với thực hành và môi trường học tập năng động, sinh viên ngành Công nghệ sinh học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam được trang bị đầy đủ năng lực để thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh chuyển đổi xanh và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

“Nhờ vậy, tỷ lệ sinh viên ngành Công nghệ sinh học có việc làm sau một năm tốt nghiệp của trường đạt khoảng 90%. Đây là kết quả tích cực nhờ định hướng đào tạo gắn liền với thực tiễn và sự chủ động trong việc kết nối với doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các đơn vị sử dụng lao động”, cô Hạnh chia sẻ.

Năm 2025, Học viện Nông nghiệp Việt Nam tuyển sinh 16 ngành trình độ thạc sĩ, với 989 chỉ tiêu tuyển sinh, theo phương thức xét tuyển. Học viện cấp 50 suất học bổng toàn phần cho tân học viên cao học. Giảm 15% học phí trong toàn khóa học cho học viên là sinh viên của Học viện nhập học thạc sĩ trong khoảng thời gian 12 tháng sau khi tốt nghiệp đại học. Nhiều chính sách ưu đãi mới được áp dụng như hỗ trợ kinh phí nghiên cứu (khi tham gia các nhóm nghiên cứu mạnh, nghiên cứu xuất sắc, nghiên cứu tinh hoa…); hỗ trợ tăng cường năng lực ngoại ngữ; miễn hoặc được cộng điểm trong một số học phần nếu tham gia đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên…

Hình thức đào tạo chính quy áp dụng cho chương trình định hướng nghiên cứu và chương trình định hướng ứng dụng (15-24 tháng). Hình thức đào tạo vừa làm vừa học áp dụng cho chương trình định hướng ứng dụng (24-30 tháng).

Chi tiết xem tại: https://vnua.edu.vn/TSTHACSI

Hotline: 0977311338 / 02462617519

Email: banqldt@vnua.edu.vn

ĐÀO HIỀN