Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ hội học tập cho học sinh dân tộc thiểu số, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư số 44/2021/TT-BGDĐT ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tuyển sinh, bồi dưỡng dự bị đại học; xét chuyển vào học trình độ đại học, trình độ cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non.

Trong đó, Dự thảo Thông tư bổ sung môn Tin học thành môn bắt buộc trong chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa dự bị đại học.

Bước đi chiến lược trong bối cảnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và tạo tiền đề phát triển STEM

Trước thông tin này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Nguyễn Tuấn Anh - Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học dân tộc Trung ương cho biết, trước đây, việc xây dựng đề cương chi tiết các môn bồi dưỡng dự bị đại học dựa theo chương trình giáo dục phổ thông năm 2006. Tuy nhiên, với chương trình giáo dục phổ thông 2018, việc xây dựng đề cương chi tiết không còn phù hợp. Thay vào đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng khung chương trình bồi dưỡng dự bị đại học nhằm đặt ra các mục tiêu cần đạt, hướng dẫn tổ chức kiểm tra, đánh giá và thời gian thực hiện chương trình, tạo điều kiện tốt nhất để các trường dự bị đại học xây dựng kế hoạch phát triển. Đồng thời, đội ngũ giáo viên giảng dạy của các trường này cũng phát huy được sự chủ động, cùng khả năng sáng tạo phù hợp với thực tiễn, qua đó nâng cao chất lượng bồi dưỡng dự bị đại học.

Theo thầy Tuấn Anh, trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, việc đưa môn Tin học trở thành môn bắt buộc trong chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa dự bị đại học là điều hết sức cần thiết. Trong đó, nội dung kiến thức của môn Tin học cũng sẽ có những điều chỉnh đáng kể. Trước đây, môn Tin học chỉ dừng lại ở việc học các ứng dụng cơ bản như Word, Excel, PowerPoint mang tính đại trà và bắt buộc cho tất cả học sinh, thì hiện tại, môn học này được bổ sung và điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên số, với các kiến thức và kỹ năng cập nhật theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến.

thay-tuan-anh-du-bi-dh.jpg
Thầy Nguyễn Tuấn Anh - Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học dân tộc Trung ương. Ảnh website trường

Tuy nhiên, để triển khai giảng dạy môn Tin học hiệu quả trong chương trình đào tạo, các trường dự bị đại học cần lưu ý về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng dạy của môn học.

Cụ thể, điều kiện tiên quyết để thực hiện giảng dạy hiệu quả môn Tin học chính là yếu tố con người, đặc biệt là tư duy, năng lực của đội ngũ giáo viên. Giáo viên phải được trang bị kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để hướng dẫn học sinh cách điều khiển, khai thác công nghệ như một trợ lý, làm chủ và biến công nghệ thành công cụ hữu ích cho bản thân mình.

Về cơ sở vật chất, hiện một số cơ sở giáo dục còn gặp khó khăn trong việc đảm bảo trang thiết bị dạy học môn Tin học, chẳng hạn như việc thiếu máy tính để phục vụ cho học sinh thực hành. Do đó, để khắc phục những hạn chế này, trước mắt, các trường có thể áp dụng giải pháp chia ca học hoặc tổ chức học theo nhóm học sinh để tăng cường hiệu quả thực hành.

Cùng chung quan điểm, thầy Lê Văn Sơn - Phó Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn (Thanh Hóa) cho hay, việc đưa môn Tin học trở thành môn học bắt buộc trong chương trình dự bị đại học là một bước đi cấp thiết, mang tầm nhìn chiến lược trong bối cảnh chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việc này góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng dự bị đại học, giúp học sinh sẵn sàng vượt qua thử thách của thời đại để trở thành những người học sáng tạo và bắt kịp với kỷ nguyên số.

Mặt khác, tăng cơ hội tiếp cận công bằng cho học sinh dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, bởi những học sinh này thường có cơ hội được tiếp cận với công nghệ không nhiều. Việc được học môn Tin học sẽ giúp học sinh thu hẹp “khoảng cách số” và có sự chuẩn bị tốt cho việc học lên bậc học cao hơn. Hơn nữa, điều này cũng giúp khơi dậy đam mê công nghệ và mở ra những cơ hội nghề nghiệp mới cho các em.

Cũng theo thầy Sơn, nếu đưa môn Tin học trở thành môn bắt buộc ở chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa dự bị đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên sớm ban hành chương trình khung có tính chất định hướng chung cho môn Tin học.

thay-le-van-son.jpg
Thầy Lê Văn Sơn - Phó Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học dân tộc Sầm Sơn. Ảnh website trường

Còn thầy Lê Hữu Thức - Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc bổ sung môn Tin học trở thành môn học bắt buộc trong chương trình bồi dưỡng văn hóa dự bị đại học là sự thay đổi phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018, đặc biệt trong bối cảnh việc thực hiện chuyển đổi số và tạo tiền đề để phát triển STEM khi phương pháp giáo dục này đang được đẩy mạnh ở tất cả các cấp học.

Cũng theo thầy Thức, để đưa môn Tin học trở thành một môn học bắt buộc trong tổ hợp môn bồi dưỡng dự bị đại học, cần lưu ý đến những điều kiện sau:

Thứ nhất, về chương trình và nội dung giảng dạy, cần thiết kế mở và linh hoạt. Chương trình cần có cả các chủ đề bắt buộc và chủ đề lựa chọn, không phụ thuộc vào các thiết bị hay phần mềm cụ thể. Điều này giúp các địa phương, trường học và học sinh có thể vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế. Đồng thời, cần xen kẽ những nội dung lý thuyết với thực hành, trừu tượng với trực quan để phù hợp với lứa tuổi của học sinh.

Thứ hai, về phương pháp dạy và học, cần áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, coi trọng trực quan và thực hành. Song song với đó, khuyến khích sử dụng phương pháp dạy học theo dự án để phát huy khả năng làm việc nhóm, tự học và tính chủ động của học sinh. Đặc biệt, nên phối hợp với các môn học khác để đạt hiệu quả trong dạy học liên môn và dạy học theo định hướng STEM.

thay-thuc-du-bi-dh-hcm.jpg
Thầy Lê Hữu Thức (đang phát biểu) - Hiệu trưởng Trường Dự bị Đại học Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website trường

Thu hẹp khoảng cách về công nghệ số

Một điểm đáng chú ý của Dự thảo là tăng cường nội dung thực hành, thí nghiệm và ứng dụng công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI).

Đánh giá về nội dung này, theo thầy Nguyễn Tuấn Anh, việc tăng cường nội dung thực hành, thí nghiệm và ứng dụng công nghệ sẽ tạo ra những tác động tích cực đáng kể tới cả giáo viên và học sinh. Đối với giáo viên, sự thay đổi nhận thức và việc cập nhật kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin, đặc biệt là AI sẽ tạo ra sự hứng khởi lớn và thêm động lực để đội ngũ này nâng cao, đổi mới phương pháp, nội dung giảng dạy.

Còn đối với học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, việc tiếp cận với các công nghệ tiên tiến này sẽ mở ra nhiều cơ hội học tập và phát triển cho các em. Đồng thời, thu hẹp khoảng cách tiếp cận công nghệ và trang bị những kỹ năng cần thiết trong bối cảnh công nghệ thông tin đã và đang được ứng dụng rộng rãi. Mặt khác, đây cũng là một định hướng quan trọng để học sinh không bị tụt hậu, mà có thể tự tin hòa nhập và phát triển năng lực trong kỷ nguyên số.

thumb-tin-hoc.jpg
Ảnh minh họa: Mộc Trà.

Đồng ý kiến với quan điểm trên, thầy Lê Văn Sơn cho rằng, điều này giúp học sinh học được trải nghiệm thực tiễn, thay vì chỉ ghi nhớ lý thuyết và gỡ bỏ rào cản tâm lý “môn học khó” với môn Tin học. Đồng thời, khơi dậy sự tự tin, tính tò mò và yêu thích công nghệ để học sinh có thể phát triển triển được năng lực số trong thời đại 4.0.

Việc ứng dụng AI sẽ khuyến khích học sinh sáng tạo, phát triển tư duy giải quyết vấn đề thông qua hoạt động như lập trình, tạo sản phẩm AI nhỏ (chatbot, nhận diện ảnh,...). Đây chính là tư duy khoa học và sáng tạo, đổi mới cần thiết trong quá trình học tập và tương lai của các em.

Đặc biệt, điều này cũng sẽ mở ra các hướng đi mới trong định hướng nghề nghiệp cho học sinh dự bị đại học như: kỹ thuật phần mềm, dữ liệu lớn, tự động hóa, đồ họa số,…. Từ đó, góp phần thu hẹp khoảng cách về cơ hội phát triển năng lực, công nghệ số của học sinh các dân tộc, khu vực, vùng miền.

Trong khi đó, thầy Lê Hữu Thức cho rằng, việc dự thảo Thông tư bổ sung tăng cường nội dung thực hành, thí nghiệm, đẩy mạnh khai thác công nghệ thông tin và định hướng học sinh sử dụng công nghệ AI là một bước tiến đột phá không chỉ là một sự thay đổi về nội dung, mà còn là một cuộc cách mạng trong phương pháp giáo dục. Điều này tạo ra một môi trường học tập năng động, hiện đại, giúp học sinh dân tộc thiểu số có đủ năng lực và phẩm chất để tự tin bước vào cánh cửa đại học và phát triển trong kỷ nguyên số.

Thông qua các bài thực hành, thí nghiệm và làm việc với AI, học sinh sẽ được rèn luyện tư duy phản biện, logic và khả năng giải quyết vấn đề. Các em sẽ không chỉ học lý thuyết mà còn biết cách ứng dụng kiến thức vào thực tế để tạo ra các sản phẩm cụ thể.

Đặc biệt, việc khai thác công nghệ và AI giúp học sinh cảm thấy hứng thú hơn với việc học. Thay vì chỉ tiếp thu kiến thức một chiều, các em sẽ được tham gia vào các dự án, khám phá và tìm tòi, từ đó nâng cao tính chủ động và niềm đam mê với khoa học công nghệ. Việc được trang bị kiến thức và kỹ năng về AI ngay từ sớm giúp học sinh có lợi thế lớn khi lựa chọn ngành nghề và phát triển sự nghiệp sau này, đặc biệt là trong các lĩnh vực STEM.

Và đây cũng là cơ hội để giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy để đáp ứng yêu cầu của chương trình mới. Bởi giáo viên sẽ phải thay đổi phương pháp dạy học từ truyền thống sang hiện đại và sử dụng các phương pháp dạy học kết hợp công nghệ vào bài giảng. Từ đó, giáo viên sẽ có cơ hội sáng tạo hơn trong việc thiết kế bài giảng, cùng các dự án thực hành và phương pháp đánh giá, giúp quá trình dạy và học trở nên sinh động và hiệu quả hơn.

"Việc dạy về AI và các công nghệ mới đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển chuyên môn, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên. Với những kiến thức về AI và công nghệ, giáo viên sẽ có thêm công cụ để định hướng, khơi dậy niềm đam mê và giúp học sinh xác định con đường nghề nghiệp phù hợp trong tương lai", thầy Thức nêu quan điểm.

Mạnh Dũng