Theo báo cáo thường niên 2024, nhiều trường đại học tại Việt Nam ghi nhận tổng thu vượt nghìn tỷ đồng, phản ánh quy mô phát triển và khả năng tự chủ ngày càng mở rộng của khối giáo dục đại học.
Cụ thể có 13 trường đạt tổng thu trên 1.000 tỷ đồng, tăng thêm hai đơn vị so với năm học trước, bao gồm: Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Cần Thơ, Trường Đại học FPT, Trường Đại học Văn Lang, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó, học phí chiếm tỷ lệ lớn nhất ở tất cả trường. Đáng chú ý, Trường Đại học FPT dẫn đầu danh sách với tổng thu vượt trội 4.376,8 tỷ đồng, tăng hơn 1.458 tỷ đồng so với năm 2023. Riêng học phí chiếm phần lớn, đạt tới 3.955 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ còn rất khiêm tốn, duy nhất trong danh sách 13 trường đại học trên có Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh khi tỷ lệ này đạt 27.6%, cao nhất trong cả nước.
Theo các chuyên gia, thực tế cho thấy nhiều đề tài nghiên cứu khoa học vẫn thiên về tính học thuật hoặc phục vụ mục tiêu nội bộ nên chưa gắn với nhu cầu thực tiễn, dẫn đến giá trị ứng dụng và hiệu quả kinh tế còn khiêm tốn.
Nguyên nhân do mối liên kết giữa Nhà nước, Nhà trường và doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Chu Thị Hồng Thái - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn nhận định, việc nhiều trường đại học có tổng thu trên nghìn tỷ đồng nhưng phần lớn nguồn thu vẫn đến từ học phí, trong khi nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ còn hạn chế là nghịch lý của giáo dục đại học hiện nay.

Theo Đại biểu, đây là hệ quả của sự mất cân đối trong cơ cấu nguồn thu, đồng thời phản ánh rõ việc các cơ sở giáo dục đại học vẫn chưa khai thác hiệu quả tiềm năng của hoạt động nghiên cứu khoa học. Bởi nếu chỉ dựa vào học phí, các trường đại học sẽ rất khó để phát triển bền vững trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt.
“Tôi cho rằng nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thực trạng trên nằm ở sự chênh lệch lớn về điều kiện đầu tư cho hoạt động nghiên cứu giữa các trường đại học. Một số trường đại học có tiềm lực tài chính mạnh nên có thể dành nguồn kinh phí đáng kể cho nghiên cứu và phát triển (R&D), từ đó thu hoạch được kết quả tốt. Trong khi đó, nhiều trường công lập tự chủ tài chính phải xoay xở trong khuôn khổ nguồn thu hạn hẹp nên việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn dè dặt. Trên thực tế, khi không đủ nguồn kinh phí để duy trì nhóm nghiên cứu, thực hiện các đề tài lớn hay hợp tác quốc tế, các trường đại học khó có thể tạo ra sản phẩm khoa học có giá trị thương mại cao.
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa được chú trọng. Hiện nay, nhiều đề tài vẫn dừng lại ở mức nghiệm thu, lưu trữ mà chưa được phát triển thành sản phẩm cụ thể có thể ứng dụng trong thực tiễn. Do đó, việc chuyển giao công nghệ sang doanh nghiệp gặp nhiều rào cản do thiếu cơ chế phối hợp và hành lang pháp lý rõ ràng”, Đại biểu Chu Thị Hồng Thái nêu quan điểm.
Đại biểu bày tỏ, hiện nay, mối liên kết giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp chưa thực sự phát huy hiệu quả. Đặc biệt, khi chưa có cơ chế khuyến khích rõ ràng, doanh nghiệp ngại đầu tư cho nghiên cứu, trong khi các trường lại chưa đủ nguồn lực để tự phát triển sản phẩm. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư để mua công nghệ nước ngoài, nhưng lại ít quan tâm tới việc hợp tác nghiên cứu với các trường đại học trong nước.
Do đó, muốn mở rộng nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, Nhà nước cần xem xét bổ sung chính sách ưu đãi cụ thể như miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đặt hàng nghiên cứu trong nước, hay thành lập quỹ hỗ trợ thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ.
“Hiện nay không ít trường đại học chưa xác định rõ hướng nghiên cứu mũi nhọn, thiếu nhóm nghiên cứu mạnh và chưa xây dựng được hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và xã hội. Thậm chí, hoạt động nghiên cứu ở nhiều nơi vẫn còn mang tính hình thức, chưa thực sự gắn với nhu cầu của thị trường.
Mặt khác, việc phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu từ học phí khiến nhiều trường có nguy cơ rơi vào thế bị động, tiềm ẩn rủi ro tài chính lớn. Nếu quy mô tuyển sinh giảm hoặc chất lượng đào tạo không đủ sức cạnh tranh, tổng thu của trường đại học sẽ sụt giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của giảng viên và nhân viên. Bởi nếu không có sinh viên, các trường gần như không có nguồn tài chính để duy trì hoạt động. Khi đó, mọi kế hoạch phát triển, từ đầu tư cơ sở vật chất đến nghiên cứu đều bị ảnh hưởng”, Đại biểu nêu quan điểm.
Cùng bàn vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học hiện nay đều gặp khó khăn chung. Trong đó, vướng mắc lớn nhất nằm ở khâu kết nối giữa nhà trường với các đơn vị có nhu cầu ứng dụng sản phẩm nghiên cứu, đặc biệt là doanh nghiệp. Dù giảng viên và nhà khoa học trong trường vẫn nỗ lực nghiên cứu và tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng, song việc thương mại hóa, chuyển giao kết quả nghiên cứu còn hạn chế do thiếu cầu nối hiệu quả giữa bên cung và bên cầu.

"Để từng bước khắc phục, nhà trường đang chủ động tăng cường hợp tác với doanh nghiệp và các địa phương, ký kết thỏa thuận nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đồng thời giao chỉ tiêu cụ thể cho từng khoa về hoạt động nghiên cứu và chuyển giao nhằm đóng góp vào tổng nguồn thu chung của trường. Các khoa cũng được khuyến khích chủ động kết nối với doanh nghiệp, tổ chức, sở ngành để mở rộng hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và tổ chức các khóa tư vấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giảng viên.
Trên thực tế, các doanh nghiệp có nhu cầu nghiên cứu và đổi mới công nghệ khá lớn, song điều quan trọng là hai bên phải có điểm chung để hiểu và hợp tác được với nhau. Do vậy, vấn đề hiện nay không phải là thiếu nhu cầu hay thiếu sản phẩm, mà là thiếu sự kết nối hiệu quả giữa nhà trường và doanh nghiệp. Khi tháo gỡ được nút thắt này, chắc chắn hoạt động nghiên cứu và chuyển giao sẽ phát triển mạnh mẽ hơn", thầy Hồng nhấn mạnh.

13 cơ sở giáo dục đại học có tổng thu trên nghìn tỷ: Nguồn thu từ học phí chiếm đa số, NCKH “lép vế”
Đồng quan điểm trên, chuyên gia giáo dục, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống nhận định, các trường đại học cần coi việc đầu tư cho nghiên cứu không phải là chi phí ngắn hạn mà là đầu tư cho tri thức và tương lai. Bởi nếu muốn phát triển bền vững, các trường đại học không thể chỉ dựa vào việc mở rộng nguồn thu từ học phí, mà phải tăng được nguồn thu từ nghiên cứu khoa học. Khi ấy, nền giáo dục đại học Việt Nam ngày càng có cơ hội phát triển và hội nhập.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống, một trong những nguyên nhân khiến nguồn thu từ nghiên cứu khoa học còn hạn chế là do cơ chế vận hành của các viện, trung tâm nghiên cứu chưa phát huy hiệu quả toàn diện. Hiện nay, phần lớn giảng viên trường đại học có thiên hướng tập trung vào giảng dạy cho sinh viên, ít dành thời gian cho nghiên cứu. Bên cạnh đó, các viện nghiên cứu thuộc trường đại học có quy mô nhỏ lẻ, manh mún.
“Để khắc phục thực trạng trên, tôi cho rằng cần phải thay đổi tư duy, coi hợp tác giữa Nhà nước, trường đại học và doanh nghiệp là ‘mắt xích sống còn’ để phát triển nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Trong đó, doanh nghiệp phải là đơn vị đặt hàng, đưa ra bài toán thực tế, trường đại học là nơi nghiên cứu và phát triển giải pháp, còn Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, điều phối và đồng tài trợ kinh phí. Chỉ khi có cơ chế ba bên cùng tham gia, kết quả nghiên cứu mới có tính ứng dụng, mới tạo ra lợi ích thực cho doanh nghiệp và nguồn thu ổn định cho trường đại học”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống nêu quan điểm.
Cần xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp
Theo Đại biểu Chu Thị Hồng Thái, để mở rộng nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, tránh trường hợp phụ thuộc chính vào học phí, trước hết các trường đại học cần chủ động thay đổi tư duy quản trị. Cụ thể, nghiên cứu khoa học phải được xem là nhiệm vụ trung tâm, là hướng phát triển chiến lược chứ không phải hoạt động phụ. Các trường đại học cần xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, đầu tư cho đổi mới sáng tạo và tăng cường hợp tác với doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm có khả năng ứng dụng cao. Về phía Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ cụ thể, tạo hành lang pháp lý rõ ràng và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, đặt hàng nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục đại học.
“Chỉ khi nào các sản phẩm nghiên cứu thực sự được đưa vào đời sống, mang lại giá trị cho xã hội và kinh tế, thì hoạt động khoa học mới trở thành nguồn thu bền vững cho các trường.
Nếu thực hiện tốt, hướng đi này không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào học phí mà còn góp phần nâng cao uy tín, chất lượng và sức cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Bởi trường đại học muốn phát triển bền vững phải bắt đầu từ tri thức, và tri thức chỉ thật sự có giá trị khi nó được chuyển hóa thành động lực cho sự phát triển”, Đại biểu bày tỏ.
Đồng quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng bày tỏ, về định hướng sắp tới, nhà trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức và địa phương, coi đây là giải pháp then chốt để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học phát triển bền vững. Việc hợp tác không chỉ dừng lại ở các đề tài nghiên cứu chung, mà còn hướng tới xây dựng chuỗi giá trị khép kín, từ khâu hình thành ý tưởng, triển khai thực nghiệm, đến thương mại hóa và chuyển giao kết quả nghiên cứu. Chỉ khi các sản phẩm khoa học được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn thì hoạt động nghiên cứu mới thật sự mang lại giá trị và đóng góp thiết thực cho xã hội.

Cùng với đó, nhà trường đang xác định rõ những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và tiềm năng tăng trưởng cao để tập trung nguồn lực phát triển. Trong đó, nhiều đề tài nghiên cứu có khả năng ứng dụng và chuyển giao trong các lĩnh vực kỹ thuật, vật liệu, năng lượng, tự động hóa… Bên cạnh đó, giáo dục - đào tạo cũng được xem là mảng có tiềm năng lớn thông qua việc phát triển các chương trình bồi dưỡng, tư vấn, nâng cao năng lực và chuyển giao chương trình đào tạo cho các đơn vị, doanh nghiệp và cơ sở giáo dục khác.
"Cả hai lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo sẽ trở thành 'trụ cột kép' trong chiến lược phát triển nhà trường, vừa giúp đa dạng hóa nguồn thu, vừa nâng cao uy tín và vị thế học thuật. Trong dài hạn, nhà trường hướng tới mục tiêu tăng dần tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động khoa học - công nghệ trong tổng thu, tiến tới giảm dần sự phụ thuộc vào học phí, qua đó khẳng định năng lực tự chủ thực chất của một cơ sở giáo dục đại học trong thời kỳ mới", thầy Hồng bày tỏ.