Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số 6103/BGDĐT-GDNNGDTX về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2025–2026 đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên. Đáng chú ý, đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, Bộ yêu cầu tập trung triển khai nhiều nhiệm vụ trọng tâm được kỳ vọng mang lại giá trị thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Một trong những nhiệm vụ nhận được sự quan tâm của nhiều cơ sở đào tạo là: Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp; triển khai hiệu quả mô hình hợp tác “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp”; mở rộng đào tạo theo mô hình “một chương trình - hai địa điểm” (lý thuyết tại trường, thực hành tại doanh nghiệp) và đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại cho lao động trong doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần phát huy hiệu quả hội đồng kỹ năng nghề để tăng cường gắn kết với doanh nghiệp
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực có vai trò quyết định đối với kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Với phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam hiện nay đặt ra yêu cầu phát triển chiến lược dài hạn, đồng thời nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Chia sẻ về vấn đề này, thầy Phạm Đức Thuận - Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề Việt Mỹ (Thái Nguyên) nhận định, việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp sẽ mở ra nhiều cơ hội cung cấp chương trình đào tạo chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người học và thị trường lao động.
Sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp góp phần gắn kết chặt chẽ giữa công tác đào tạo với nhu cầu tuyển dụng theo mô hình “đào tạo theo những gì doanh nghiệp cần”, hướng đến tiếp cận linh hoạt và hiệu quả. Khi doanh nghiệp trực tiếp đồng hành cùng nhà trường, quá trình đào tạo sẽ trở nên sát thực tế hơn, từ đó người học được trang bị kỹ năng, tác phong và tư duy nghề nghiệp phù hợp với môi trường làm việc hiện đại.

Việc thúc đẩy doanh nghiệp hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại là bước đi chiến lược, mở ra cơ hội lớn để cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu lao động trong kỷ nguyên công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ nhất, với người học, điều này giúp rút ngắn khoảng cách từ giảng đường đến thực tiễn, hình thành tác phong công nghiệp, kỹ năng mềm, kỹ năng nghề ngay trong quá trình đào tạo. Quan trọng nhất, người học sẽ có nhiều lựa chọn và cơ hội để lập thân, lập nghiệp.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp, đây là cách tuyển chọn nhân lực hiệu quả, tiết kiệm chi phí, cũng như thời gian đào tạo lại. Khi được tiếp cận, theo dõi và đánh giá người học ngay từ giai đoạn đào tạo, doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn những ứng viên phù hợp nhất, đồng thời định hướng kỹ năng, tác phong và văn hóa nghề nghiệp theo đúng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của mình. Đây cũng là giải pháp giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng đội ngũ nhân sự ổn định, giảm rủi ro trong tuyển dụng và nâng cao năng suất lao động.
Thứ ba, với xã hội, đây là lời giải quan trọng cho bài toán thiếu hụt lao động tay nghề cao - một trong những thách thức lớn hiện nay, đòi hỏi xây dựng và hình thành chuỗi cung ứng nhân lực chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Để hiện thực hóa mô hình “một chương trình - hai địa điểm” (lý thuyết tại trường, thực hành tại doanh nghiệp), thầy Thuận đề xuất các hội đồng kỹ năng nghề cần được thành lập ngay tại trường, với sự tham gia trực tiếp của doanh nghiệp. Hội đồng cùng nhà trường xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy, đánh giá năng lực và tuyển dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp. Đây là cơ chế quan trọng để đảm bảo sự đồng bộ giữa “đào tạo trong nhà trường” và “sử dụng trong doanh nghiệp”.
Bên cạnh đó, việc thành lập quỹ đào tạo nhân lực được xem là giải pháp thiết thực nhằm huy động nguồn lực xã hội hóa. Nguồn lực này không chỉ hỗ trợ cải thiện đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị thực hành mà còn tạo động lực mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Từ hợp tác hình thức đến kết nối thực chất giữa nhà trường và doanh nghiệp
Đồng tình với ý kiến trên, Thạc sĩ Nguyễn Văn Ba - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hoà Bình (tỉnh Phú Thọ) cho biết, mô hình “đào tạo kép” (kết hợp giữa việc học lý thuyết tại trường và thực hành tại doanh nghiệp) giúp hoạt động giáo dục nghề nghiệp bám sát thực tiễn hơn, nâng cao hiệu quả và khả năng đáp ứng nhu cầu tuyển dụng trong bối cảnh thị trường lao động ngày khắt khe.
Thực tế cho thấy còn tồn tại một số hạn chế khiến công tác đào tạo thiếu sự phối hợp hiệu quả, bởi lẽ, các trường chủ yếu đào tạo theo chương trình sẵn có nhằm đảm bảo chuẩn đầu ra theo khung quy định, ít cập nhật nhu cầu thực tiễn từ thị trường biến đổi không ngừng. Trong khi đó, doanh nghiệp tuyển dụng yêu cầu người học có thể làm việc ngay, đòi hỏi cao về kỹ năng thực tế, nhưng chưa chủ động phát huy hết hiệu quả tham gia góp ý hay đồng hành từ đầu cùng nhà trường.
Điều này khiến sinh viên dù tốt nghiệp đúng chuẩn nhưng vẫn khó đáp ứng yêu cầu ở thực tiễn. Ngoài ra, nhiều đơn vị mong muốn hợp tác với cơ sở đào tạo nhưng thiếu cơ chế phối hợp rõ ràng, ràng buộc trách nhiệm cụ thể để triển khai, nên các doanh nghiệp không quá mặn mà trong việc đồng hành cùng nhà trường. Hơn nữa, nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp chưa có bộ phận phụ trách làm cầu nối, dẫn đến quá trình liên kết có thể rời rạc, thiếu sự phối hợp ổn định.
Vì vậy, định hướng chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo được kỳ vọng trở thành động lực và nền tảng xuyên suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của hệ thống giáo dục nghề nghiệp tại các địa phương, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm học 2025-2026 đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
Theo Tiến sĩ Trương Huỳnh Như - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu (Thành phố Hồ Chí Minh), nhà trường đào tạo nhiều ngành, nghề ở các trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng như cơ khí chế tạo, cơ khí động lực, điện công nghiệp, cơ điện tử, công nghệ thông tin, điện lạnh, du lịch, chế biến thực phẩm,… Tiếp tục đảm bảo đúng cam kết việc làm cho người học sau tốt nghiệp, nhà trường triển khai đa dạng hình thức hợp tác với doanh nghiệp, đơn vị quản lý doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ việc làm ngay từ khâu tư vấn, hướng nghiệp và tuyển sinh.
Trong quá trình đào tạo, nhà trường đẩy mạnh đào tạo theo mô hình “một chương trình - hai địa điểm”, tạo điều kiện cho người học tham gia thực hành nâng cao và thực tập trực tiếp tại doanh nghiệp, đồng thời mời các chuyên gia về tham gia giảng dạy và hướng dẫn kỹ năng nghề. Bên cạnh đó, trường mở rộng hợp tác với một số đơn vị đào tạo và tổ chức doanh nghiệp nước ngoài, nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo theo chuẩn quốc tế. Cơ sở giáo dục phấn đấu thực hiện đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% quy mô đào tạo của trường.

Có thể nói, sự gắn kết giữa giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp - đơn vị sử dụng lao động tạo ra rất nhiều chuyển biến tích cực cho thị trường lao động. Song, để hợp tác hiệu quả hơn, cần tháo gỡ một số rào cản, khuyến khích doanh nghiệp đặt hàng đào tạo, mở rộng chính sách đãi ngộ, mức lương phù hợp đối với lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ, bằng cấp. Các trường cũng cần đẩy mạnh tuyên truyền, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp, đa dạng hình thức hợp tác, góp phần nâng tỉ lệ cam kết giải quyết việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp.
Để có những đột phá mới, nhà trường đề xuất các ngành, địa phương tăng cường hỗ trợ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tạo môi trường thuận lợi để kết nối nhà trường với đơn vị sử dụng lao động; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, tạo sự chuyển biến về nhận thức, đồng thuận của xã hội về phát triển đào tạo giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên; công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông vào học tại các trường trung cấp, cao đẳng.
Bên cạnh đó, nhằm nâng cao sự gắn kết giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp, một số giải pháp khác cần thực hiện là ban hành cơ chế, chính sách linh hoạt, khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp như ưu đãi về tài chính, thuế, ưu đãi đầu tư, xếp hạng doanh nghiệp, phúc lợi xã hội,… Mặt khác, quy hoạch ổn định các cơ sở đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu nguồn nhân lực; phát huy hiệu quả mô hình hợp tác “Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp”; xây dựng dự báo nhu cầu nhân lực theo cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương theo từng giai đoạn.