Tự chủ đại học là một xu hướng phổ biến của giáo dục đại học thế giới.
Ở Việt Nam từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học.
Điều này thể hiện trên rất nhiều văn bản như các Nghị quyết 29 và Nghị quyết 19 của Ban chấp hành Trung ương, các Nghị quyết 14 (2005), 77 (2014) và 89 (2016) của Chính phủ, các Luật Giáo dục (2005, 2019) và Luật Giáo dục Đại học (2012, 2018)…
Cho đến nay, chủ trương này đã giúp cho một số trường đại học có những bước đi kỳ diệu cả về chất lượng và hiệu quả ví như Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Trường này không nhận ngân sách nhà nước để hoạt động, nhưng vẫn lọt vào top 400 trường hàng đầu của thế giới ở các Bảng xếp hạng có uy tín.
Tuy nhiên, do thói quen bao cấp nên phần lớn các trường đại học (nhất là các đại học công lập) hưởng ứng việc tự chủ kém nhiệt tình, thậm chí có trường còn cho rằng vẫn cần phải tiếp tục bao cấp; làm cho chủ trương tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, nhà nước không thể đi vào cuộc sống.
|
Theo một số chuyên gia về giáo dục đại học; thì nguyên nhân các trường hưởng ứng kém nhiệt tình chủ trương tự chủ do:
Một là, nhiều cơ quan quản lý còn giữ thói quen bao cấp; không muốn chuyển giao quyền lực cho nhà trường (chính xác là hội đồng trường) thông qua việc cố duy trì cơ chế cơ quan chủ quản, cơ chế bộ chủ quản. Cũng có cơ quan muốn duy trì tình trạng này vì lợi ích cục bộ.
Hai là, hệ thống văn bản quản lý đại học không được điều chỉnh đồng bộ; rất nhiều văn bản hiện hành còn trái với quan điểm chỉ đạo về tự chủ tại các Nghị quyết 19 Ban chấp hành trung ương, các Nghị quyết của Chính phủ và Luật giáo dục đại học (2018), khiến các cơ sở giáo dục đại học rất khó thi hành.
Làm đâu cũng thấy có khả năng “sai luật”; và vì thế, ít người có dũng cảm để dám làm; trừ những người hết lòng với nhà trường.
Ba là, phần lớn lãnh đạo các trường đại học công lập còn nặng tư duy bao cấp, không muốn bỏ “nguồn sữa” ngân sách nhà nước; do hiểu sai khái niệm tự chủ đại học, khi chỉ đồng nhất nó với khái niệm “tự túc tài chính”.
Bốn là, có quan niệm “bệnh thành tích” nặng nề; muốn triển khai ồ ạt chủ trương trao ngay quyền tự chủ đại học cho tất cả các trường đại học, kể cả những trường chưa đủ điều kiện được tự chủ hoặc còn chưa muốn tự chủ. Việc này cũng gây ra dư luận lo ngại trong những người làm chính sách vĩ mô.
Để bảo đảm thắng lợi cho chủ trương tự chủ, kinh nghiệm thế giới và Việt Nam cho thấy, quyền tự chủ của nhà trường chỉ có thể trao cho một tập thể lãnh đạo có trí tuệ (tức Hội đồng trường), không thể trao cho cá nhân Hiệu trưởng. Hiệu trưởng chỉ là viên chức điều hành, làm thuê.
Do đó chỉ các trường đại học công lập tự chủ mới thực sự cần có Hội đồng trường.
Từ thực tế như vậy một chuyên gia (đề nghị không nêu tên) trong lĩnh vực giáo dục đại học chia sẻ với Giáo dục Việt Nam rằng, chúng ta chưa nên thực hiện tự chủ đại học đồng thời ở tất cả các trường đại học công lập; mà cần phải có lộ trình cụ thể, chia nhóm theo mức độ, không nóng vội.
Bởi theo vị này, qua một số cuộc điều tra gần đây có thể thấy nhiều trường đại học, kể cả không ít trường đại học lớn và đã làm thí điểm tự chủ, còn chưa sẵn sàng tự nguyện chuyển qua cơ chế tự chủ hoàn toàn, không có bộ chủ quản. Lý do thì thuộc về 4 nguyên nhân ở trên.
Do đó trước mắt cần chia các trường đại học công lập thành 3 nhóm: trường tự chủ, trường bán tự chủ và trường chưa tự chủ.
Chỉ 2 nhóm trường đầu mới cần có Hội đồng trường; và mới cần sớm bỏ cơ chế bộ chủ quản.
Ngoài ra, Hội đồng trường chỉ nên thành lập ở những trường đã hội đủ các điều kiện như:
Đã thể hiện đủ năng lực để được nhà nước chuyển quyền tự chủ trên cơ sở nhận thức đầy đủ trách nhiệm xã hội của mình.
Để giúp các trường tự đánh giá năng lực, Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo cần sớm ban hành Bộ chuẩn giáo dục đại học (như Điều 68 Luật giáo dục đại học 2018).
Đã được giải phóng khỏi cơ chế cơ quan/bộ chủ quản một thời gian. Sự lãnh đạo của cơ quan chủ quản đối với nhà trường (nếu có) được thực hiện qua vai trò của các đại diện của mình trong Hội đồng trường (thậm chí với số lượng tham gia cao).
Cơ cấu thành viên của Hội đồng trường nên hướng tới thể hiện tính “cộng đồng” thật sự của chủ sở hữu.
Do đó số lượng các thành viên “ngoài trường” trong Hội đồng trường phải chiếm tỷ lệ cao.
Ngoài ra để đảm bảo cho Hội đồng luôn có được sự khách quan, các thành viên ngoài trường không nên hưởng bất kỳ khoản phụ cấp hoặc lương nào từ nhà trường.
Không hạn chế tuổi tác, nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng trường.
Đặc biệt, Nhà nước không nên cắt ngân sách của các trường đại học tự chủ; mà trái lại cần tăng cường hỗ trợ ngân sách dưới hình thức đặt hàng cho những trường triển khai tự chủ đại học thành công; để nâng nhanh chất lượng của những trường này lên, giúp các trường sớm cạnh tranh quốc tế.
Trong khi đó, một chuyên gia khác cho rằng, để tự chủ đại học đạt hiệu quả phải phân định rạch ròi vai trò lãnh đạo của Tổ chức Đảng và của Hội đồng trường đối với Hiệu trưởng và tập thể Ban giám hiệu.
Về vấn đề này nên vận dụng các nguyên tắc đã được áp dụng khi giải quyết các mối quan hệ giữa Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội và Chính phủ cũng như theo định hướng tại Nghị quyết Trung ương 19:
“…Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng: hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch hội đồng trường…”.
Hơn nữa, vị này nhấn mạnh, cơ cấu và nhân sự của Hội đồng trường (khi mới thành lập lần đầu) không nên do Tập thể lãnh đạo trường và cơ quan chủ quản đề xuất/quyết định (như trong Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật);
Mà nên được chỉ định bởi một cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Chính phủ đối với đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Chính quyền địa phương được phân cấp quản lý đối với trường đại học, học viện) dựa trên đề xuất (bằng nghị quyết) của Đảng ủy trường.
Và để bảo đảm Hội đồng trường là tổ chức quản trị, là cơ quan quyền lực cao nhất trong trường đại học công lập tự chủ và đại diện duy nhất cho quyền sở hữu của cộng đồng xã hội đối với nhà trường, thành phần của hội đồng trường ở các trường công lập nên được xác lập như sau:
Đối với các trường đại học tự chủ: Hội đồng trường bao gồm các thành viên trong trường (Đảng ủy, Ban giám hiệu, Công đoàn, Đoàn thanh niên, giảng viên, viên chức và cán bộ quản lý );
Và các thành viên ngoài trường (đại diện của cơ quan quản lý nhà nước, các cựu lãnh đạo Đảng và nhà nước có uy tín, các nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng, các doanh nhân tiêu biểu, vừa có tâm vừa có tầm, các cựu sinh viên thành đạt,…).
Để bảo đảm tính khách quan của các quyết nghị của Hội đồng trường (không bị chi phối bởi các lợi ích cục bộ) thành phần ngoài trường phải chiếm đa số; và đa thành phần. Một khi như vậy, số lượng thành viên đại diện cơ quan quản lý trực tiếp phải chiếm tỷ lệ thấp để bảo đảm tính đại diện cộng đồng.
Đối với các trường đại học bán tự chủ: Hội đồng trường vẫn bao gồm các thành viên với thành phần như ở các trường đại học tự chủ; nhưng tỉ lệ thành viên đại diện cho cơ quan quản lý trực tiếp (chủ quản) ban đầu có thể tương đối cao.
Sự lãnh đạo của cơ quan chủ quản đối với nhà trường (nếu có) chỉ được thực hiện qua ý kiến và lá phiếu của các đại diện của mình trong Hội đồng trường.
Đặc biệt, không lẫn lộn chức năng của các đơn vị quản lý: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, Cơ quan quản lý trực tiếp cơ sở giáo dục đại học. Không dùng khái niệm mập mờ “Cơ quan quản lý có thẩm quyền”. Lúc thì “cơ quan chủ quản”, lúc thì “cơ quan quản lý có thẩm quyền”, lúc thì “cơ quan quản lý trực tiếp” chỉ khiến các trường rối, hiểu sai, thực hiện sai.
Trong mọi trường hợp trách nhiệm công nhận Hội đồng trường của các cơ sở giáo dục đại học (cả công lập lẫn tư thục) chỉ thuộc về Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (không như Nghị định 99/NĐ-CP).
Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm quản lý của mình thông qua hệ thống các chuẩn giáo dục đại học (như Điều 68 Luật Giáo dục đại học 2018).
Các quy định đã ban hành của các Tổ chức Đảng, đoàn thể, cơ quan Nhà nước cần được điều chỉnh sao cho phù hợp với tinh thần của các Nghị quyết 29 và 19 của Ban chấp hành Trung ương và Luật Giáo duc đại học 2018 (Luật 34/2018/H14). Không để lạc điệu như hiện này khiến các trường rất khó làm.
Các chuyên gia đều cùng quan điểm rằng: “Cần có các quy định riêng đồng bộ cho các cơ sở giáo dục đại học tự chủ để các trường tự chủ hoạt động thuận lợi và chủ trương tự chủ đại học của Đảng và Nhà nước sớm đi vào cuộc sống”.