Dấu ấn của ngành giáo dục và đào tạo dưới thời cố Bộ trưởng Trần Hồng Quân

23/08/2024 06:20
Hà An

GDVN -Cho đến nay quá trình đổi mới đã trải qua gần 4 thập niên, việc nhìn lại quá trình đó là hết sức cần thiết để tìm hiểu đổi mới giáo dục bắt đầu từ đổi mới GDĐH.

LTS: Tiếp tục loạt bài viết tưởng nhớ tới những công lao của Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hồng Quân đối với nền giáo dục nước nhà khi tròn 1 năm ngày mất của thầy (25/8/2023-25/8/2024), hôm nay, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam trân trọng gửi tới độc giả bài viết thứ 3 ghi nhận những đóng góp của cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân – một nhà đổi mới giáo dục thông qua các vấn đề cụ thể.

(Bài 1)

(Bài 2)

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vào cuối năm 1986 với quyết định thay đổi đường lối phát triển kinh tế xã hội, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là dấu mốc bắt đầu thời kỳ đổi mới quan trọng của nước ta. Từ thời điểm đó, hệ thống giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học đã triển khai nhiều đổi mới giúp hệ thống thoát khỏi những khủng hoảng trì trệ.

Cho đến nay quá trình đổi mới đã trải qua gần 4 thập niên, việc nhìn lại quá trình đó là hết sức cần thiết để tìm hiểu đổi mới giáo dục bắt đầu từ đổi mới giáo dục đại học.

Trong đó, thập niên đầu tiên của quá trình đổi mới giáo dục đại học (1987-1997) là giai đoạn khởi đầu cơ bản và phức tạp nhất vì đó là giai đoạn phải thay đổi nhiều khái niệm, triết lý và thể chế, chuyển từ hệ thống cũ sang hệ thống mới.

Để giúp các nhà quản lý giáo dục đại học hiểu sâu sắc hơn về các chủ trương chính sách hiện tại, giúp những người tìm hiểu về lịch sử phát triển giáo dục đại học trong giai đoạn này có tư liệu nghiên cứu, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam điểm lại 8 vấn đề mang đậm dấu ấn của ngành giáo dục và đào tạo trong thập niên đầu tiên của đổi mới (1987-1997).

3.jpg
Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân – một nhà đổi mới giáo dục

Trong phạm vi bài viết này, Tạp chí trân trọng gửi tới độc giả 3 vấn đề đầu tiên của quá trình đổi mới giáo dục đại học dưới thời cố Bộ trưởng Trần Hồng Quân.

Vấn đề 1: Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học

Mở rộng quy mô đào tạo: Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân tại Hội nghị Hiệu trưởng đại học và cao đẳng toàn quốc tổ chức vào tháng 8/1993 cho thấy, thời điểm này, ngành đại học nước ta nổi bật lên sự cần thiết và cấp bách của việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và cao đẳng trong cả nước, mà phần lớn những trường này đều có quy mô đào tạo dưới chỉ tiêu kinh tế. Kinh nghiệm nhiều nước châu Á cho thấy chi phí đào tạo cho mỗi sinh viên ở các trường đại học có số lượng sinh viên dưới 2.000 có thể gấp rưỡi so với các trường đại học có quy mô trên 4.000 sinh viên. Tuy nhiên, vấn đề này đang vấp phải những trở ngại nhất định.

Vì vậy, trước mắt, việc đề xuất và thực hiện những cơ chế để các trường đại học và cao đẳng có thể tự nguyện liên kết với nhau trong đào tạo, hình thành các cụm trường (bao gồm các trường khác lĩnh vực, khác cấp) có thể là một trong những giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy sự xuất hiện một mạng lưới mới, hợp lý và năng động hơn.

Trong mỗi cụm trường như vậy sẽ có sự phân công lại nhiệm vụ đào tạo của từng trường theo mỗi giai đoạn, trên cơ sở phát huy hết công suất đào tạo của toàn cụm và nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường trong mỗi cụm có thể phối hợp với nhau để đào tạo những chương trình liên môn.

Hạt nhân của các cụm trường trên có thể là các trường trọng điểm quốc gia – những trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học có chất lượng cao trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tức là đạt trình độ quốc tế, có khả năng đào tạo những chuyên gia khoa học kỹ thuật và công nghệ bậc cao, có khả năng giao lưu và hợp tác quốc tế có hiệu quả và từ đó nền đại học Việt Nam có thể từng bước hòa nhập với nền đại học của khu vực và thế giới.

Nhà nước sẽ ưu tiên đầu tư ngân sách, trang thiết bị, tăng thêm quyền chủ động cho các trường trọng điểm quốc gia và những trường nằm trong cụm liên kết.

Ngân sách đầu tư cho giáo dục trong những năm qua mặc dù có tăng nhưng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu cả ngành, do đó Bộ chủ trương sắp tới sẽ chuyển dần những trường đại học không nằm trong các cụm liên kết sang cơ chế bán công, hoạt động dựa chủ yếu trên kinh phí lấy từ các nguồn thu ngoài nhà nước, hoặc từ các nguồn kinh phí riêng của ngành, của địa phương và của các doanh nghiệp.

Cho các trường đại học và cao đẳng được chủ động đề xuất chỉ tiêu tuyển sinh tối đa: Những năm trước đây, do bị hạn chế bởi chỉ tiêu tuyển sinh nhà nước, các trường đại học và cao đẳng để tận dụng công suất đào tạo của mình, đã mở ra hệ đại học mở rộng. Tuy nhiên, từ năm 1993-1994, những ràng buộc của cơ chế tập trung bao cấp đã bị xóa bỏ, các trường được quyền định cho mình chỉ tiêu tuyển sinh dựa vào khả năng đào tạo, nhu cầu xã hội và chất lượng đầu vào. Do đó, trên thực tế từ năm học này, cả 2 hệ đào tạo chính quy và mở rộng đã hội tụ làm một.

Một số trường có nhu cầu đào tạo cho các đối tượng đang đi làm, có tuổi ngoài độ tuổi tuyển sinh chính quy. Đối với những đối tượng như vậy, ngoài loại hình đào tạo tại chức và chuyên tu đã có (được đào tạo theo các chương trình riêng và cấp văn bằng riêng), từ năm học 1993-1994 Bộ cho mở thêm hệ bán thời gian. Sinh viên hệ toàn thời gian (chính quy thông thường) và sinh viên hệ bán thời gian về cơ bản học cùng nội dung, chương trình (ngoại trừ một số môn học được trường miễn trừ trên cơ sở xem xét hoạt động nghề nghiệp của người học), được đánh giá theo cùng một chuẩn mực; hai hệ này chỉ khác nhau về phương thức tuyển sinh và thời gian đào tạo; do đó sinh viên tốt nghiệp ở hai hệ sẽ được cấp cùng một loại văn bằng chính quy.

Cũng nên nhận thấy rằng với việc hệ đào tạo tại chức dần dần đổi mới nội dung chương trình đào tạo theo xu hướng tích cực, sau một vài năm nữa cả hai hệ bán thời gian và tại chức sẽ chụm lại làm một, mặc dù trước mắt, giữa hai hệ này vẫn còn một số điểm khác biệt.

Chỉ tiêu tuyển sinh tối đa vào mỗi trường đại học cần được xác định riêng rẽ cho từng giai đoạn. Do công suất đào tạo ở mỗi trường giống nhau ở cả hai giai đoạn nên để đảm bảo không có tình trạng thải loại sinh viên một cách ồ ạt sau giai đoạn 1, các trường (bao gồm đại học cơ bản, đại học chuyên ngành, cao đẳng cơ bản, cao đẳng chuyên nhành và trung học chuyên nghiệp) cần liên kết với nhau thành từng cụm theo khu vực và chỉ tiêu tuyển sinh tối đa cần được xác lập theo khả năng đào tạo chung của toàn cụm trường liên kết. Những trường nằm ngoài cụm liên kết, chỉ nên định chỉ tiêu tuyển sinh vào giai đoạn một cao hơn công suất đào tạo tối đa ở giai đoạn 2 khoảng 20% là vừa phải.

Chuyển các trường trung học chuyên nghiệp đủ điều kiện lên cao đẳng: Mở rộng quy mô đào tạo đại học cũng gắn liền với việc tăng số lượng các cơ sở đào tạo cao đẳng thực hành. Theo phân loại của UNESCO và Ngân hàng thế giới, các trường trung học chuyên nghiệp của Việt Nam tuyển sinh tốt nghiêp phổ thông trung học về hình thức được xếp trong khu vực cao đẳng.

Tuy nhiên, về mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo thì chúng còn ở dưới mức đó. Khi đó ở nước ta rất thiếu các cơ sở đào tạo nhân lực lao động có trình độ cao đẳng thực sự và điều này tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các thành phần cán bộ ở trình độ sau trung học (cán bộ có trình độ đại học quá nhiều, cán bộ có trình độ cao đẳng ít; trong khi ở các nước tỷ lệ này thường là 1:1). Nhằm khắc phục sự mất cân đối đó, cần xác định mục tiêu và nội dung, chương trình đào tạo kỹ thuật viên và nhanh chóng chuyển những trường trung học chuyên nghiệp mạnh lên bậc cao đẳng. Để công việc này triển khai thuận lợi, Bộ kiến nghị để Thủ tướng Chính phủ trao quyền cho Bộ được công nhận các trường cao đẳng.

Xây dựng và phát triển hệ thống trường đại học mở: Nhằm tạo ra sự bình đẳng cho nhân dân về cơ hội được tiếp nhận học vấn đại học, đồng thời góp phần tăng nhanh số lượng sinh viên đại học.

Khác với các trường đại học truyền thống, các trường đại học mở chấp nhận nguồn tuyển sinh tự do; nói chung không hạn chế số lượng người đăng ký học; có phương thức đào tạo đa dạng: từ xa, tại chỗ, tại các cơ sở vệ tinh; có chi phí đào tạo thấp (có thể chỉ bằng 1/10 chi phí đại học truyền thống) do tận dụng được lực lượng cán bộ giảng dạy và cơ sở vật chất ở tất cả các trường, các cơ sở nghiên cứu, dịch vụ và sản xuất còn dư công suất.

Giáo dục từ xa và các chương trình đào tạo mở có thể có hiệu quả rõ rệt trong việc mở rộng đầu vào đại học ở các đại học truyền thống. Đấy cũng còn là một công cụ để thực hiện giáo dục liên tục và để triển khai các chương trình bồi dưỡng, đào tạo lại, đặc biệt đối với việc bồi dưỡng giáo viên tại chức.

Điều đáng lưu ý là các đại học mở phải có công nghệ kiểm tra đánh giá đặc biệt để kiểm soát chặt chẽ chất lượng đầu ra và phải có đội ngũ cán bộ giảng dạy chính là những chuyên gia giỏi trong cả nước, có kiến thức sư phạm vững vàng.

Phát triển hệ thống đại học tư thục và dân lập: Nghị quyết Trung ương 4 về giáo dục đã công nhận sự tồn tại của các loại trường đại học dân lập và tư thục và quy chế về đại học tư thục đã được Nhà nước ban hành, với ý định hệ thống trường này sẽ bổ sung cho hệ thống đại học công lập nhằm thỏa mãn yêu cầu quá cao của nhân dân về chỗ học. Điều đáng quan tâm là ở nhiều nước, chi phí đơn vị cho các trường tư thục có thể thấp hơn nhiều so với các trường đại học công lập (thường bằng 30-50%). Lúc đó, Bộ đã nhận được trên 15 đơn xin mở đại học tư thục và dân lập từ khắp miền đất nước. Bộ thể chế hóa các loại hình trường mới này để một mặt tạo thuận lợi cho việc mở trường và không bóp nghẹt đi những sáng kiến riêng, mặt khác vẫn có thể kiểm soát chặt chẽ về mặt chất lượng đào tạo và hoạt động tài chính.

Sắp xếp mạng lưới các trường trong hệ thống quốc dân: Ngày 3/10/1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thông báo số 5264/VP-TH về kết luận của Bộ trưởng Trần Hồng Quân tại cuộc họp bàn kế hoạch triển khai thực hiện QĐ-255 của Hội đồng Bộ trưởng về việc “tổ chức và sắp xếp mạng lưới các trường trong hệ thống quốc dân”.

Thông báo nêu, ngày 28/9/1991 Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã chủ trì cuộc họp bàn kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định 255 của Hội đồng Bộ trưởng về việc “tổ chức và sắp xếp mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Theo đó, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã kết luận như sau:

“Thứ nhất, cần nhận thức rằng đây là một việc hết sức lớn, quan trọng, cấp thiết nhưng cũng rất khó khăn phức tạp. Thực hiện nó sẽ động đến toàn bộ hệ thống, liên quan đến tất cả các địa phương và nhiều Bộ, ngành. Trước đây chúng ta cũng đã thấy được vấn đề này nhưng nay đã có quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, khi tính đến việc làm càng thấy vấn đề lớn và khó khăn, vì vậy phải tính kỹ cách làm. Trước hết cần rà soát lại đề án và xây dựng được phương án thiết kế tổng thể, trên cơ sở đó mà phân bổ, sắp xếp từng ngành học, từng cấp học như thế nào? Hình dung lên được mô hình sắp xếp mạng lưới trường ở từng vùng, từng địa phương như thế nào? Tôi nghĩ phương châm của chúng ta là chọn nơi dễ, việc dễ làm trước, việc khó làm sau. Ví dụ: Mầm non, phổ thông là mảng trường toàn bộ gắn với địa phương, do địa phương quản lý. Rồi đến mảng trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phần lớn giao cho địa phương, phần liên quan các bộ thì Bộ ta đứng ra làm trực tiếp với các Bộ.

Khó nhất là khối đại học. Tự sắp xếp với nhau đã khó, liên quan đến các Viện khoa học càng phức tạp. Hội đồng Bộ trưởng đã làm việc với mấy viện và có ý kiến nhập một số Viện với một số trường đại học. Như vậy việc sắp xếp mạng lưới trường đại học có liên quan đến các Viện khoa học.

Thứ hai, phải sớm ra được thông tư hướng dẫn thực hiện quyết định của Hội đồng Bộ trưởng. Cần làm ngay thông tư hướng dẫn việc sắp xếp mạng lưới trường các ngành học Mầm non, phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thuộc địa phương, do địa phương quản lý. Còn phần liên quan các Bộ, ngành Trung ương thì Bộ ta sẽ làm trực tiếp với từng Bộ để tiến hành việc sắp xếp.

Thứ ba, khi tiến hành sắp xếp lại mạng lưới các trường sẽ có những vấn đề liên quan đến công tác tổ chức, cán bộ và các chế độ chính sách, nghĩa là sẽ liên quan đến công việc của nhiều Bộ, ngành quản lý. Như vậy cần thiết phải có các thông tư liên Bộ để giải quyết từng mặt.

Thứ tư, nghiên cứu sắp xếp mạng lưới trường công lập cũng phải quan tâm đến mạng lưới trường dân lập. Hướng là sẽ chuyển một số trường công lập thành trường bán công; chuyển một số trường đại học sang chế độ tự quản. Như vậy phải nghiên cứu, dự thảo quy chế về đại học tự quản.

Thứ năm là việc tổ chức chỉ đạo thực hiện: Phải hình thành một Ban chỉ đạo cấp cao bao gồm lãnh đạo Bộ và phải có đại diện một số cơ quan liên quan mới có đủ khả năng và hiệu lực chỉ đạo thực hiện tốt quyết định này…”.

Vấn đề 2: Đổi mới quy trình và chương trình đào tạo

Trong đánh giá về đổi mới đại học vào tháng 8/1996 của Vụ Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thông tin: Chúng ta mong muốn xây dựng một hệ thống đại học phù hợp với hệ thống kinh tế xã hội đổi mới (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) để thỏa mãn yêu cầu về số lượng và chất lượng, trong điều kiện nguồn lực hết sức hạn hẹp.

Đó là bài toán rất nan giải vì điều kiện của bài toán rất khắc nghiệt. Không thể có lời giải hoàn toàn tốt, chỉ có lời giải tối ưu.

Từ hệ thống đại học đơn ngành cũ thích hợp với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đến bắt đầu hình thành hệ thống đại học gồm đại học đa lĩnh vực (quốc gia, vùng); học viện, trường đại học (đặc biệt có 2 đại học mở); trường cao đẳng đặc biệt là hệ thống đại học, cao đẳng cộng đồng đang hình thành và đại học dân lập (cần có thêm các trường cao đẳng).

Các cơ sở đại học trong hệ thống đó không phải cô lập mà liên thông với nhau. Liên thông là yếu tố cực kỳ quan trọng, để sử dụng được sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống nhằm thỏa mãn mục tiêu rất cao về số lượng và chất lượng (về số lượng hiện tại: Việt Nam khoảng 40 sinh viên /10.000 dân, Thái Lan là 170, Hàn Quốc là 480) trong điều kiện của một nước còn quá nghèo (250USD/ người). Cơ chế vận hành để đảm bảo sự liên thông đó được thể hiện:

9.jpg
Ảnh minh họa: H.A

Về mặt giảng dạy, quy trình đào tạo nhiều giai đoạn (2 giai đoạn bậc đại học, tiếp theo là cao học). Phục vụ cho quy trình đó là hệ thống chương trình giai đoạn 1 chuẩn hóa dần được hoàn chỉnh, cụ thể:

Trong hệ thống lớn: Sinh viên đi học phải dựa vào sức học, sức tiền và phải ngóng nhìn khả năng tìm việc làm, do đó họ cần được điều chỉnh ngành nghề sau giai đoạn 1, nhà trường cũng cần tuyển chọn nhiều lần cho đúng sinh viên phù hợp. Và gắn kết hệ thống cao đẳng cộng đồng với các đại học lớn, thanh niên nông thôn có thể “ăn cơm nhà, học đại học” trong giai đoạn đầu, số học tốt sẽ thi chuyển lên học giai đoạn chuyên nghiệp ở các trường đại học lớn, số không chuyển được thì học các nghề ở cao đẳng cộng đồng để ra làm việc phục vụ kinh tế địa phương. Sự liên thông này hạn chế bớt phần nào sự bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, tạo thêm cơ hội cho người nghèo học đại học.

Trong nội bộ một đại học đa lĩnh vực: Theo quan niệm phổ biến của đại học thế giới, trong chương trình cử nhân có 2 khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Một đại học đa lĩnh vực có hàng trăm ngành nghề nhưng nghiên cứu kỹ các chương trình của hàng trăm ngành nghề đó thấy có những phần giáo dục đại cương giống nhau có thể gom lại thành khoảng 10 chương trình. Qua đối chiếu, so sánh, chúng ta thấy đối với các ngành nghề phổ biến nhất ở ta có thể gom lại trong 7 nhóm chương trình.

Về tổ chức đào tạo đại học đại cương: Khi xây dựng được chương trình đại học thành 2 phần như vậy, việc tổ chức giảng dạy có thể theo 2 cách. Một là, cứ để từng trường, từng khoa đào tạo riêng sinh viên của mình. Hai là, tổ chức đào tạo chung phần giáo dục đại cương ở giai đoạn 1. Khi ta còn nghèo, phương án thức 2 là tiết kiệm nhất.

Quy trình đào tạo đại học đổi mới: Vụ Đại học cho rằng, theo quan niệm phổ biến của đại học thế giới, trong chương trình cử nhân có 2 khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Phần kiến thức giáo dục đại cương có hai mục tiêu: tạo tầm nhìn rộng (để thích nghi với thị trường lao động: tìm việc làm và đổi nghề khi cần) và tạo tiềm lực (khoa học cơ bản, ngoại ngữ…) để học phần chuyên ngành giai đoạn 2 và để học suốt đời.

Trong hệ thống đại học trước đây của ta và của Liên Xô cũ rất ít chú ý phần giáo dục đại cương, vì đào tạo chủ yếu để phân phối theo kế hoạch cứng, do đó ai quen với hệ thống cũ có thể thấy lạ khi sinh viên học toán phải chọn một vài học phần về kinh tế hoặc khoa học xã hội nhân văn; sinh viên học Văn - Sử phải học Tin học và chọn một vài học phần về khoa học tự nhiên. Tất cả các môn học đều được xây dựng ở trình độ đại học, có mức độ tổng hợp cao. Nếu có giáo trình nào đó viết chưa đạt mức độ đã nêu thì do trình độ của người viết chứ không phải do chủ trương phổ thông hóa đại học. Lý luận giáo dục đại học thế giới đều khẳng định rằng phần giáo dục đại cương là phần cần thiết của trình độ đại học, nó phân biệt trình độ đại học với các trình độ nghề cao cấp.

Về nội dung giảng dạy, chúng ta thay việc đào tạo theo chuyên ngành hẹp trước kia ở cấp đại học bằng đào tạo theo diện rộng ở cấp cử nhân, vì ta còn có cấp cao học đào tạo chuyên sâu. Để chuyển tải chương trình học, chúng ta đã dùng hệ thống mô-đun hóa kiến thức, nay gọi là hệ thống tín chỉ. Đây là hệ thống quản lý đào tạo mềm dẻo, tạo thuận lợi tối đa cho người học. Chúng ta còn quy định hệ thống các học phần bắt buộc, tự chọn, tùy ý làm cho quy trình mềm dẻo thêm. Hệ thống tín chỉ tỏ ra có hiệu quả rất cao ở nhiều cơ sở giáo dục đại học vì đây là kiểu tổ chức đào tạo theo phong cách công nghiệp, theo kiểu siêu thị, chú ý đến năng lực và hoàn cảnh của từng sinh viên trong khi vẫn phục vụ được số đông. Với việc dần dần đưa vào hệ thống tín chỉ, chúng ta đã chuẩn bị cơ sở để phát triển một hệ thống đại học mang tính đại chúng, nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đề xuất cách để tăng quy mô và chất lượng đại học: Để tăng quy mô đại học, Vụ Đại học đề nghị cần thực hiện 3 biện pháp gồm:

Các trường đại học truyền thống nên phát triển hết công suất nhưng không quá tải, cố gắng đảm bảo chất lượng.

Phát triển hệ thống đại học đại cương, cao đẳng cộng đồng để tăng quy mô và tăng tính bình đẳng.

Xây dựng tốt các trường đại học mở làm công cụ quan trọng để tăng quy mô. Trường đại học mở là loại hình trường đặc biệt, với đặc điểm: đầu vào mở, điều kiện học dễ dàng linh hoạt và có một hệ thống đánh giá đặc biệt để đảm bảo chất lượng đầu ra.

Về đánh giá chất lượng: Đồng ý với đề xuất tăng quyền tự chủ cho đại học. Trong quá trình đổi mới đại học bắt đầu từ năm 1987-1996, quyền tự chủ của các trường đại học ngày càng được tăng cường. Qua lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn giáo dục đại học thế giới, khi nói về quyền tự chủ (autonomy) bao giờ người ta cũng đồng thời nhấn mạnh tính chịu trách nhiệm (accountability). Quyền tự chủ và tính chịu trách nhiệm là hai mặt đi đôi với nhau không thể tách rời.

Ở nhiều nước trên thế giới khi đảm bảo quyền tự chủ cho các trường đại học người ta cũng đồng thời xây dựng một hệ thống hỗ trợ để nâng cao tính chịu trách nhiệm của các trường đại học nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo của chúng. Với xu hướng quốc tế hóa giáo dục đại học, trên thế giới đã hình thành nhiều tổ chức quốc tế về đảm bảo chất lượng đại học. Theo đường lối mở cửa, việc hội nhập nước ta vào khu vực và thế giới buộc chúng ta phải xây dựng hệ thống quản lý chất lượng của mình cho cộng đồng quốc tế chấp nhận các sản phẩm của giáo dục đại học Việt Nam trong thị trường lao động chung.

Trước nhu cầu của hệ thống đại học đổi mới trong nền kinh tế đang biến chuyển và trong xu hướng quốc tế hoặc giáo dục đại học, quốc tế hóa thị trường lao động buộc chúng ta phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng cho đại học nước ta.

Phần lớn các hệ thống quốc gia quản lý việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học đều bao gồm các yếu tố chính như: Có một cơ quan hoặc liên kết hoặc độc lập với nhà nước để giám sát đánh giá; Có tiến hành một quy trình tự đánh giá với sản phẩm là một báo cáo tự đánh giá; Có một cuộc khảo sát tại chỗ của đồng nghiệp từ bên ngoài; Có việc chuẩn bị và công bố một số báo cáo về kết quả đánh giá.

Để thực hiện các hoạt động trên, cần xây dựng ở cấp quốc gia một Hội đồng chất lượng đại học với chức năng: Tư vấn về một số chính sách đại học và về chất lượng tổng thể của giáo dục đại học cho Nhà nước nhằm thúc đẩy việc duy trì và tăng cường chất lượng trong cáctrường đại học; Chỉ đạo triển khai việc kiểm định chất lượng các trường đại học công lập và dân lập.

Trong mỗi trường đại học cần thành lập Ban theo dõi đảm bảo chất lượng để điều phối mọi hoạt động về đảm bảo và tăng cường chất lượng trong các trường đại học; tổ chức việc tự đánh giá trong nhà trường; chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để đánh giá từ bên ngoài theo kế hoạch chung của Hội đồng chất lượng đại học.

Cải tiến hệ thống thi cử: Sau khi nghiên cứu kỹ và nắm được các công nghệ kiểm tra đánh giá, Vụ Đại học thấy nếu dùng công nghệ mới tác động vào kỳ thi tuyển sinh đại học thì sẽ giải quyết một cách cơ bản nhiều vấn đề được đặt ra. Biện pháp đó là cải cách kỳ thi tuyển sinh đại học bằng một kỳ thi thống nhất dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hóa.

Vì thi theo phương pháp trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hóa có thể xây dựng đề thi phủ kín hầu hết kiến thức môn phải thi, do đó học sinh nắm vững môn học quy định thì sẽ có kết quả thi tốt, không còn hiện tượng trúng tủ, trật tủ, giảm rất nhiều sự may rủi, do đó không còn luyện tủ, học tủ, học để trở thành thợ giải các bài toán khó.

Nếu triển khai cải cách tuyển sinh bằng phương pháp này thì dần dần sẽ làm biến mất hàng loạt lò luyện thi theo kiểu luyện tủ, lành mạnh hóa việc luyện thi: có thể còn luyện để củng cố vững chắc kiến thức đã học ở phổ thông. Cải cách tuyển sinh cũng giải quyết được hàng loạt bất hợp lý khác: tiết kiệm cho dân (không phải thi nhiều trường), giảm thiểu tiêu cực do quay cóp, công bằng và khách quan trong chấm thi (chấm bằng máy). Đầu tư về công nghệ cho việc chuẩn bị đề thi kiểu này rất lớn nên từng trường đại học riêng rẽ không đủ sức để làm, phải tổ chức cho nhiều trường đại học liên kết với nhau. Khi việc dạy tủ, học tủ giảm đi thì hiện tượng học lệch ở phổ thông trung học sẽ giảm.

Vấn đề 3: Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân

Tại tham luận của Viện nghiên cứu đại học và giáo dục chuyên nghiệp ở hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc mùa hè năm 1992 về cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục đào tạo nêu rõ:

Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, hiểu theo nghĩa rộng gồm các vấn đề cơ cấu cấp bậc học, cơ cấu loại hình giáo dục đào tạo, cơ cấu ngành học, cơ cấu quản lý và phân bố địa lý của mạng lưới các cơ sở đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân có: giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông; giáo dục chuyên nghiệp; giáo dục đại học. Trong đó có các loại hình trường lớp đặc biệt (dành cho trẻ em khuyết tật); năng khiếu (nhằm bồi dưỡng nhân tài); các loại hình trường lớp công lập, bán công, tự quản, dân lập, tư thục. Hoạt động giáo dục đào tạo được thực hiện theo phương thức chính quy và không chính quy.

NVM_4441.jpg
Ảnh minh họa: H.A

Giáo dục theo phương thức chính quy thực hiện trong các nhà trường và cơ sở giáo dục đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, với nhiều trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nghiệp vụ và phạm vi chuyên môn hóa khác nhau; mỗi cấp bậc học tương ứng với độ tuổi nhất định. Sự hoàn thành tốt mỗi trình độ được công nhận bằng một văn bằng hoặc chứng chỉ cho phép tiếp tục học ở trình độ cao hơn.

Giáo dục theo phương thức không chính quy (thường còn được gọi là giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục) thực hiện bằng nhiều hình thức giáo dục – đào tạo phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho mọi đối tượng, ở mọi lứa tuổi theo mọi trình độ từ tiểu học, trung học đến đại học như bổ túc, bồi dưỡng, tại chức, hàm thụ, buổi tối, giáo dục từ xa, đào tạo lại, tự học… Giáo dục theo phương thức không chính quy là một quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời, bao gồm mọi trình độ từ thấp (tiểu học) đến cao (đại học), tiến hành một cách đều đặn hoặc gián đoạn, bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng nhằm mục đích nâng cao trình độ học vấn hoặc trình độ nghề nghiệp cho mọi người ở mọi lứa tuổi không có điều kiện học tập ở các trường lớp trong hệ thống có tính chất chuẩn mực nói trên.

Giữa giáo dục có tính chất hệ thống, chuẩn mực với giáo dục không chính quy có sự liên thông và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Giáo dục có tính chuẩn mực đảm bảo chất lượng bằng những biện pháp có hệ thống, người học phải có đủ khả năng nhiều mặt mới có thể theo đuổi việc học được liên tục. Giáo dục không chính quy có tính mềm dẻo, linh hoạt hơn, có nhiều loại hình đa dạng, hình thức phong phú, quá trình đào tạo có thể gián đoạn và nối tiếp lại khi có điều kiện và nhu cầu, do đó quá trình giáo dục đào tạo thường tổ chức theo đơn vị học phần hơn là niên chế. Người học có thể học tập để đáp ứng nhu cầu trước mắt, hoặc để tích lũy kiến thức và kỹ năng nhằm đạt tới các trình độ chuẩn mực của giáo dục.

Các hình thức giáo dục – đào tạo để đáp ứng yêu cầu học tập thường xuyên và suốt đờiđể đáp ứng tốt hơn mục tiêu nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực cho nền kinh tế - xã hội trong tình hình mới, đồng thời tạo cơ hội cho mọi người được học tập theo nguyện vọng và phù hợp với hoàn cảnh của mình.

Các bậc học: Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các bậc học: tiểu học; trung học (gồm có trung học cơ sở, trung học chuyên ban, trung học chuyên nghiệp, trung học nghề và đào tạo nghề sau tiểu học và sau trung học cơ sở); đại học (bao gồm cao đẳng và đại học); sau đại học (bao gồm cao học và đào tạo tiến sĩ).

Cụ thể thời gian giáo dục đào tạo và độ tuổi tương ứng với các cấp bậc học theo phương thức chính quy như sau:

Nhà trẻ: 3 năm, nhận trẻ từ 2 tháng đến 3 tháng tuổi

Mẫu giáo: 3 năm, nhận trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi

Tiểu học: 5 năm, gồm các lớp từ 1 đến 5, nhận học sinh từ 6 tuổi vào lớp 1.

Trung học cơ sở: 4 năm, gồm các lớp từ 6 đến 9, nhận học sinh từ 11 tuổi vào lớp 6.

Đào tạo nghề sau tiểu học: thời gian đào tạo từ 6 tháng trở lên

Trung học chuyên ban: 3 năm, gồm các lớp từ 10 đến 12, nhận học sinh từ 15 tuổi vào lớp 10.

Trung học chuyên nghiệp: từ 3 đến 4 năm, nhận học sinh từ 15 tuổi vào năm thứ nhất.

Trung học nghề: từ 3 đến 4 năm, nhận học sinh từ 15 tuổi vào năm thứ nhất.

Đào tạo nghề sau trung học cơ sở: từ 1 đến 2 năm, nhận học sinh từ 15 tuổi vào năm thứ nhất.

Cao đẳng: 3 năm, nhận học sinh từ 18 tuổi vào năm thứ nhất;

Đại học: Từ 4 đến 6 năm, nhận học sinh từ 18 tuổi vào năm thứ nhất.

Cao học: thời gian đào tạo trung bình 2 năm, nhận người đã tốt nghiệp đại học vào học.

Đào tạo tiến sĩ: thời gian đào tạo trung bình 4 năm cho người đã tốt nghiệp đại học và 2 năm cho người đã tốt nghiệp cao học.

Đối với hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục đào tạo: Có 10 văn bằng và 2 chứng chỉ tương ứng với các cấp bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân gồm: Bằng tiểu học; Bằng trung học cơ sở; Chứng chỉ nghề; Bằng trung học chuyên ban; Bằng trung học chuyên nghiệp; Bằng trung học nghề; Bằng nghề; Chứng chỉ đại học đại cương; Bằng cao đẳng; Bằng đại học; Bằng cao học; Bằng tiến sĩ.

Danh hiệu khoa học tương ứng với một số văn bằng như sau:

Bằng cao đẳng: cử nhân cao đẳng

Bằng đại học: Cử nhân khoa học hoặc các danh hiệu khác theo truyền thống như: Kỹ sư, Bác sĩ, Dược sĩ, Kiến trúc sư…

Bằng cao học: Thạc sĩ;

Bằng Tiến sĩ: Tiến sĩ.

Một số điểm mới trong cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng chứng chỉ: So với Nghị quyết 14 ngày 11/1/1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, đề án cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục – đào tạo có một số điểm đổi mới, đó là:

Chuyển giáo dục phổ thông cơ sở cấp 1 thành tiểu học, phổ thông cơ sở cấp 2 thành trung học cơ sở;

Chuyển phổ thông trung học thành trung học chuyên ban;

Hình thành bậc trung học mới gồm trung học cơ sở, trung học chuyên ban, trung học chuyên nghiệp, trung học nghề, đào tạo nghề sau tiểu học, đào tạo nghề sau trung học cơ sở và có thêm chứng chỉ nghề: bậc trung học mới tạo nên sự liên kết và liên thông chặt chẽ giữa các loại hình giáo dục – đào tạo nhằm chuẩn bị cho người học có khả năng học lên, đồng thời có thể đi vào cuộc sống;

Phân quá trình đào tạo đại học hai giai đoạn và cấp chứng chỉ đại học đại cương sau giai đoạn thứ nhất (trừ một số ngành đặc thù)

Hình thành cấp cao học trong bậc sau đại học;

Bỏ bằng phó tiến sĩ, xác định tiến sĩ là văn bằng cao nhất của hệ thống giáo dục quốc dân.

Chính thức hóa hệ thống văn bằng và chứng chỉ theo cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân.

Theo đánh giá, cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân này là cơ cấu “khung” bảo đảm tính hoàn chỉnh, đa dạng, mềm dẻo và liên thông, tạo điều kiện cho người học có thể lựa chọn loại hình giáo dục đào tạo thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình, tạo tiền đề bảo đảm quy mô, chất lượng và hiệu quả của nền giáo dục nước ta.

Sau lúc cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân đã được nhà nước xét duyệt, cần tiếp tục cụ thể hóa các cấp bậc học, tiến hành các đề án về bậc trung học mới, về giáo dục cao đẳng, về cao học, về đào tạo tiến sĩ… Xác định mục tiêu giáo dục – đào tạo trong các cấp bậc học, xác định rõ quan hệ liên thông giữa các cấp học và loại hình giáo dục – đào tạo để cơ cấu hệ thống giáo dục nước ta ngày càng hoàn chỉnh.

(Còn tiếp)

Hà An