Thực trạng về hệ thống trường đại học - cao đẳng địa phương hiện nay
Theo Luật Giáo dục 2019 tại các địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương) hiện chỉ có 2 loại hình cơ sở giáo dục đại học địa phương là trường cao đẳng sư phạm địa phương và trường đại học địa phương (đều do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý).
Các trường cao đẳng khác thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý và không thuộc về giáo dục đại học.
Kinh nghiệm thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam nhiều năm qua cho thấy một nền giáo dục đại học tốt cần có sự phân tầng. Phân tầng ở đây chỉ có nghĩa là chấp nhận sự đa dạng về sứ mệnh của các trường đại học, hoàn toàn không hàm chứa ý nghĩa xếp hạng về chất lượng. Trên thế giới phân tầng giáo dục đại học chủ yếu nhằm 2 mục đích:
Một là, thực hiện sự phân cấp quản lý hợp lý đối với hệ thống giáo dục đại học nhằm khắc phục những hạn chế của một hệ thống giáo dục tập trung cồng kềnh vốn là sản phẩm của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp.
Hai là, mở ra sự công bằng hơn trong giáo dục đại học, tạo thuận lợi cho các vùng miền có mức độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, nhất là ở những địa phương kinh tế-xã hội còn chậm phát triển, sớm đạt được sự phát triển đồng đều nhờ có nguồn nhân lực trình độ cao bám sát nhu cầu đặc thù của chính địa phương đó, đồng thời người dân của địa phương đó có thêm cơ hội thuận lợi được tiếp cận với giáo dục đại học.
Hệ thống trường cao đẳng sư phạm địa phương
Tại Việt Nam, hệ thống các trường cao đẳng sư phạm được hình thành từ rất lâu (gần 60 năm), trực thuộc chính quyền địa phương và được giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, đáp ứng yêu cầu của địa phương.
Trong khi đó, các trường đại học sư phạm trước đây chỉ đào tạo giáo viên trung học phổ thông và một số năm gần đây mới được giao thêm nhiệm vụ đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ở trình độ đại học với số lượng hạn chế.
Tuy nhiên, hiện nay các trường cao đẳng sư phạm địa phương đang gặp phải những khó khăn rất lớn, có nguy cơ bị giải thể. Có một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do sự thay đổi trình độ chuẩn của giáo viên phổ thông theo Luật Giáo dục năm 2019 nên chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo giáo viên tiểu học và trung học cơ sở (nguồn tuyển sinh chính của trường cao đẳng sư phạm trước đây) bị cắt để chuyển hẳn cho khoảng 10 trường đại học sư phạm trong khi hầu hết các trường này lại chưa có bề dày kinh nghiệm trong việc đào tạo các loại giáo viên đó.
Thứ hai, theo định hướng quy hoạch hệ thống trường sư phạm của Bộ Giáo dục và Đào tạo một số trường cao đẳng sư phạm địa phương đã được sáp nhập vào các trường đại học sư phạm trọng điểm quốc gia/đại học vùng/trường đại học trực thuộc địa phương khác.
Đây là một sự gán ghép khiên cưỡng giữa các trường khác đẳng cấp, gây thiệt thòi lớn cho những trường địa phương có đẳng cấp thấp hơn khi phải chấp nhận tiêu chuẩn của trường đẳng cấp cao hơn trong việc bố trí sử dụng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý.
Thứ ba, ở một số địa phương, trường cao đẳng sư phạm sau khi đã teo tóp do bị cắt giảm nhiệm vụ (chỉ còn đào tạo giáo viên mầm non cho đến năm 2030) có khả năng trở thành một khoa trong trường dạy nghề, chịu sự điều chỉnh theo hướng “nghề hóa”, tức không thuộc về giáo dục đại học.
Từ các nguyên nhân trên, qua khảo sát thực tế, có thể thấy nguy cơ tiêu vong hệ thống trường sư phạm địa phương - một hệ thống sư phạm đã được xây dựng và tồn tại từ gần 60 năm qua là rõ ràng.
Hệ thống trường đại học địa phương
Trong thời gian vừa qua, có một hiện tượng rất đáng lo ngại là xu hướng lãnh đạo ở không ít địa phương đang cố gắng vận động sáp nhập trường đại học của địa phương mình vào một số đại học trọng điểm quốc gia để hy vọng các trường này được trở thành trường thành viên của các đại học đó.
Theo Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, đây là một động thái rất bất ổn, có thể dẫn đến nguy cơ làm suy yếu nghiêm trọng hệ thống giáo dục đại học đất nước.
Việc sáp nhập các trường đại học địa phương vào các đại học trọng điểm quốc gia về hình thức theo một số người được xem là một giải pháp quan trọng góp phần nâng cao đẳng cấp và năng lực tài chính cho các trường này (vốn hiện đang gặp khó khăn về nguồn lực huy động) nhưng trên thực tế điều kỳ vọng đó sẽ không đạt được, thậm chí còn làm cho các trường địa phương dễ có nguy cơ bị tiêu vong hơn.
Xin được nêu ra một số lý do để minh chứng cho nhận xét trên:
Một là, việc đưa trường đại học địa phương trở thành một trường thành viên của đại học trọng điểm quốc gia là một sự hợp nhất khiên cưỡng do hai loại trường này có sứ mệnh khác nhau, chuẩn mực kiểm định khác nhau, cơ cấu trình độ nhân lực khác nhau; nói khác đi, có đẳng cấp khác nhau.
Do đó, khi trở thành trường thành viên của đại học trọng điểm quốc gia, trường đại học địa phương để được mang thương hiệu đẳng cấp quốc gia thì buộc phải xem xét lại nhiệm vụ của mình, kiện toàn lại trình độ đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, đổi mới trang thiết bị và cơ sở vật chất, thay đổi lại ngành nghề và chương trình đào tạo, trong khi trường đại học địa phương còn chưa phù hợp trước những thay đổi như vậy. Chúng tôi được biết hiện nay trên thế giới không hề có kiểu gán ghép trường như vậy.
Hai là, trong một đại học đa lĩnh vực trọng điểm quốc gia, các trường thành viên đều là những trường chuyên ngành, trong khi trường đại học địa phương vốn là trường đa lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực đa dạng chủ yếu phục vụ nhu cầu địa phương.
Ba là, khi trường đại học địa phương trở thành thành viên của đại học trọng điểm quốc gia thì sứ mệnh phục vụ nhu cầu đa dạng về nguồn nhân lực trình độ cao cho chiến lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và để giúp cho người dân của địa phương được thêm cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học sẽ không còn nữa. Đây là một thiệt thòi lớn cho cộng đồng người dân tại địa phương.
Hiện nay, một số tỉnh đang gặp khó khăn trong việc huy động ngân sách hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập tại địa phương, trong đó có các trường đại học địa phương.
Có tình trạng chính quyền địa phương nợ trả lương nhiều tháng cho giảng viên của các trường địa phương.
Cũng phổ biến tình trạng chính quyền địa phương không biết hoặc không muốn giao chỉ tiêu đào tạo giáo viên phổ thông cho các trường địa phương như tinh thần của Nghị định 116/2020/NĐ-CP nhằm “tranh thủ” ngân sách trung ương, “tiết kiệm” ngân sách địa phương.
Do đó, xuất hiện xu hướng như trên muốn sáp nhập trường đại học địa phương vào các đại học trọng điểm quốc gia để hy vọng các đại học này sẽ hỗ trợ giúp nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học, đồng thời cung cấp ngân sách dồi dào cho các trường đại học địa phương.
Tuy nhiên, thông qua thực tế đã và đang diễn ra hiện nay, các trường địa phương đã sáp nhập hầu như không nhận được sự hỗ trợ về ngân sách từ các đại học trọng điểm quốc gia trong khi lại phải thay đổi sứ mệnh, chương trình đào tạo, cơ cấu nhân lực… cho phù hợp với sứ mệnh mới của mình.
Ở một số nơi có tình trạng trường "thành viên địa phương" còn phải có nghĩa vụ đóng góp cho "trường mẹ" .
Nói tóm lại, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học địa phương (bao gồm các trường đại học địa phương và các trường cao đẳng sư phạm địa phương) đang có nguy cơ tiêu vong.
Nguyên nhân
Có các nhóm nguyên nhân sau:
Từ góc độ quản lý nhà nước: Nhiều văn bản pháp quy quản lý nhà nước về giáo dục hạn chế tính năng động cần có của các trường địa phương (như: cào bằng “chuẩn” giữa các trường trung ương với các trường địa phương; đưa vào cơ chế “đấu thầu” để thay thế cho cơ chế “phân cấp nhiệm vụ” trong đào tạo giáo viên; không cho các trường đại học địa phương được đào tạo đa cấp; đưa cao đẳng ra khỏi giáo dục đại học; hợp nhất các trường địa phương với các trường khác sứ mệnh, khác đẳng cấp, khác địa phương; xóa bỏ quy trình đào tạo 2 giai đoạn cùng với 7 chương trình đại học đại cương,…).
Từ góc độ địa phương: Lãnh đạo không ít địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình như quy định tại Luật Giáo dục 2019.
Khoản 5, Điều 105, Luật Giáo dục 2019 nêu:
“… 5. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo phân cấp của Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
a) Kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của cơ sở giáo dục trên địa bàn;
b) Bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thư viện và thiết bị dạy học của trường công lập thuộc phạm vi quản lý;
c) Phát triển các loại hình nhà trường, thực hiện xã hội hóa giáo dục; bảo đảm đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương;
đ) Chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục tại địa phương…”
Các kiến nghị
Với hệ thống trường cao đẳng sư phạm địa phương
Trước mắt (từ nay cho tới năm 2026):
- Cơ bản giữ nguyên hệ thống các cơ sở sư phạm như hiện nay. Thực hiện phân tầng (theo sứ mệnh) hệ thống này thành các trường đại học sư phạm/ đại học giáo dục trọng điểm, các cơ sở sư phạm trung ương, các trường/khoa đại học sư phạm địa phương, các trường/khoa cao đẳng sư phạm địa phương.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Chính quyền các địa phương triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng và nâng cấp trình độ đào tạo của các cơ sở sư phạm địa phương cho phù hợp với các yêu cầu của Luật Giáo dục 2019.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ sớm thành lập trường thực hành liên cấp chất lượng cao trong các trường/khoa sư phạm.
- Thực hiện đào tạo và bồi dưỡng giáo viên chủ yếu theo địa chỉ. Xây dựng cơ chế “đặt hàng đào tạo giáo viên” từ các địa phương (ưu tiên cho các trường trong địa phương) theo đúng tinh thần của Nghị quyết 116.
Không khuyến khích đấu thầu đại trà (ở quy mô toàn quốc) trong đào tạo giáo viên cho các địa phương. Chấm dứt tình trạng cấp ngân sách đào tạo sinh viên sư phạm “vãng lai” tại các trường sư phạm trung ương.
- Sinh viên sư phạm phải được ưu tiên vay tín dụng nhà nước và được xóa nợ tín dụng nếu chấp nhận làm việc trong ngành sư phạm.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chuẩn của các cơ sở sư phạm (trọng điểm, trung ương, địa phương), chuẩn chương trình đào tạo giáo viên (nội dung cứng) và các chuẩn khác để tạo cơ chế liên thông, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống giáo dục.
- Việc nâng chuẩn trình độ của giáo viên (như theo Luật Giáo dục sửa đổi 2019) phải có tiến độ phù hợp và gắn liền với quy hoạch nâng cấp đào tạo (lên trình độ đại học) của các cơ sở sư phạm.
Riêng đối với những trường sư phạm trong thời gian còn chưa đạt chuẩn đại học như quy định ở Luật Giáo dục sửa đổi 2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chỉ đạo cụ thể thực hiện quy trình đào tạo kết hợp: 3 năm (tại trường cao đẳng sư phạm địa phương) + 1 năm (tại trường đại học sư phạm trọng điểm).
Về lâu dài (từ sau năm 2026):
Các cơ sở sư phạm từng bước chuyển thành trường giáo dục trong các đại học đa lĩnh vực hoặc khoa sư phạm trong các trường đại học địa phương hoặc phát triển thành các trường đại học địa phương đa cấp đa lĩnh vực hoàn chỉnh (Community College / University College / Rural University), để có sự ổn định trong hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo và huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn cơ sở giáo dục đại học trong đào tạo giáo viên khi xuất hiện nhu cầu lớn (do nhiều lý do khác nhau như: chuyển đổi tiếp cận giáo dục từ truyền thụ kiến thức qua phát triển năng lực, thay đổi chương trình, tăng dân số đột biến, thay đổi phương pháp và quy trình giáo dục …) như đã xảy ra nhiều lần trong 60 năm qua.
Chỉ giải thể các cơ sở sư phạm không đảm bảo chất lượng dựa trên kết quả kiểm định chất lượng đào tạo và điều tra việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp.
Phân cấp quản lý:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục và quy định tiêu chuẩn chất lượng các loại giáo viên.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và giao chỉ tiêu đào tạo/bố trí việc làm của sinh viên tốt nghiệp cho các trường đại học sư phạm/đại học giáo dục trọng điểm/trung ương.
Các trường này được tự chủ trong đào tạo sau đại học và nghiên cứu khoa học, tập trung đào tạo sau đại học (đặc biệt đối với các trường trọng điểm), nghiên cứu khoa học giáo dục và bồi dưỡng giảng viên cho các trường sư phạm và trường trung học phổ thông trên phạm vi toàn quốc.
- Cần duy trì việc phân cấp quản lý công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở (kể cả việc giao chỉ tiêu và phân công công tác sau tốt nghiệp) cho người đứng đầu các địa phương như vẫn làm từ trước tới nay theo tinh thần của Điều 105 Luật Giáo dục 2019.
Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp nắm một hệ thống sư phạm tập trung (thông qua 10 trường sư phạm trọng điểm như dự kiến) để đào tạo mọi loại giáo viên phổ thông (bao gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) là không khả thi.
- Các cơ sở sư phạm không tranh giành nguồn tuyển hoặc đào tạo chồng chéo.
Phân công trách nhiệm đào tạo:
- Các trường sư phạm trọng điểm/trung ương chủ yếu tập trung đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học giáo dục, đào tạo giáo viên trung học phổ thông và bồi dưỡng giảng viên cho các trường sư phạm và trường trung học phổ thông trong phạm vi toàn quốc.
- Các trường/khoa sư phạm địa phương tập trung đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cho các trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn của mình theo đặt hàng của uỷ ban nhân dân địa phương.
Trước mắt, chính quyền địa phương cần căn cứ vào nhu cầu thực tế về giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở của địa phương để giao chỉ tiêu đào tạo cho trường cao đẳng/đại học sư phạm địa phương của mình…
Để làm được điều đó tại các địa phương cần sớm thành lập Hội đồng giáo dục sau trung học (bao gồm đại diện các sở, ban, ngành liên quan của địa phương, đại diện cộng đồng địa phương,…) làm chức năng tham mưu cho lãnh đạo địa phương về quy hoạch phát triển giáo dục-đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nói chung cũng như nguồn nhân lực cho giáo dục đào tạo nói riêng, trên cơ sở bám sát kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương qua từng thời kỳ, thậm chí qua từng năm, điều mà các chiến lược/kế hoạch ở tầm quốc gia không thể thực hiện nổi.
Trong tương lai gần, khi cả nước chỉ còn một hệ thống giáo dục - đào tạo thống nhất, hội đồng này có thể mở rộng thành Hội đồng Giáo dục - Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực của địa phương.
Trước mắt, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đề nghị:
Một là, Thủ tướng có văn bản gửi Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố về việc sắp xếp, quy hoạch các trường cao đẳng sư phạm địa phương trong khi thực hiện các Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hai là, Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ cho các trường cao đẳng sư phạm tham gia bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới; tham gia bồi dưỡng thường xuyên giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nghiệp vụ;
Ba là, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các đơn vị liên quan thuộc Bộ (ETEP, Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, Vụ Giáo dục Đại học,...) chọn cử giảng viên các trường cao đẳng sư phạm địa phương tham gia tập huấn bồi dưỡng đội ngũ cốt cán.
Bốn là, Bộ Giáo dục và Đào tạo rút ý định loại bỏ cao đẳng sư phạm mầm non từ năm 2030.
Với hệ thống trường đại học địa phương
Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn coi trọng hệ thống giáo dục địa phương nói chung và hệ thống giáo dục đại học địa phương nói riêng và xem giáo dục địa phương là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống giáo dục quốc gia, cũng giống như vai trò của "3 thứ quân" trong chiến lược chiến tranh nhân dân của Đảng ta trước đây.
Cho dù đất nước tạm thời đang gặp khó khăn về nguồn lực nhưng không phải vì thế mà một số địa phương phải "hy sinh" đứa con của mình là trường đại học địa phương.
Trường đại học địa phương là trường đại học của địa phương, được thành lập để phục vụ cho nhu cầu đào tạo nhân lực và bồi dưỡng dân trí cho cộng đồng địa phương, do đó phải được cộng đồng người dân địa phương nuôi dưỡng cả bằng khoản trích ra từ tiền thuế do chính họ đóng góp cho chính quyền địa phương, tức là từ ngân sách địa phương, cũng như bằng đóng góp tự nguyện của các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp có tại địa phương.
Các trường đại học địa phương phải được chấp nhận tổ chức theo theo mô hình đa cấp, đa hệ, như kiểu đại học cộng đồng rất phổ biến hiện nay trên thế giới, để có được tính năng động tối đa.
Chính quyền địa phương phải có trách nhiệm duy trì và hỗ trợ các trường địa phương của mình để chúng thực hiện đúng sứ mệnh đặt ra khi thành lập.
Trong trường hợp địa phương gặp khó khăn về ngân sách đầu tư, lãnh đạo địa phương có thể cân nhắc giảm quy mô đào tạo của trường, cũng có thể vận dụng các giải pháp về xã hội hóa giáo dục để tìm kiếm thêm các nguồn lực mới cho phát triển nhà trường; tuyệt đối không chọn giải pháp giải thể hoặc chuyển loại hình, sứ mạng của trường.
Vận dụng quy trình đào tạo mới trên cơ sở thực hiện chuyển đổi số để thiết lập hệ thống giáo dục mở, liên thông cho mạng lưới cơ sở đào tạo tại mỗi địa phương
Việc hỗ trợ nâng cao năng lực đồng đều trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường địa phương cũng như để điều chỉnh linh hoạt kế hoạch đào tạo nhân lực hàng năm cho địa phương không nhất thiết phải dùng hình thức sáp nhập các trường địa phương vào trường trọng điểm, mà có thể chọn các hình thức khác, thí dụ như hình thành các cụm trường liên kết [2] trên cùng địa bàn để hỗ trợ lẫn nhau (như Ngành ta đã đề xuất tại Hội nghị đại học 1993) và triển khai hệ thống giáo dục mở thông qua Quy trình đào tạo mới [2], nhằm khai thác tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống có trên địa bàn.
Các cụm trường liên kết này, trước mắt có thể gồm các trường đại học địa phương và cao đẳng sư phạm, nhưng trong tương lai gần, còn bao gồm tất cả các trường cao đẳng chuyên nghiệp, khi những trường này được các luật về giáo dục trả lại tên, sứ mệnh và cấp độ đào tạo (cấp độ 5 theo ISCED-11) như trước đây.
Đặc biệt trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nếu thực hiện được chuyển đổi số đối với quy trình này, thì hy vọng đây chính là giải pháp tổng thể để duy trì sự ổn định và tạo cơ hội phát triển bền vững cho các hệ thống trường đại học-cao đẳng địa phương, trong đó có hệ thống các trường sư phạm.
Khái niệm hệ thống giáo dục mở [1]
Hệ thống giáo dục mở là một hệ thống giáo dục mở rộng cửa đối với mọi người, vượt qua những hạn chế về thời gian và địa điểm, có mục tiêu cuối cùng là kiến tạo “một nền giáo dục hoàn hảo” để đảm bảo sự hoàn thiện của mỗi công dân. Hệ thống giáo dục đó sẽ mang những đặc tính như sau:
- Tạo sự thuận tiện trong việc chuyển trường cũng như chuyển từ chương trình giáo dục này sang một chương trình giáo dục khác hoặc chuyển từ một chuyên ngành đào tạo này sang một chuyên ngành đào tạo khác. Nói khác đi là tạo ra cơ chế liên thông trong toàn hệ thống. Nhờ vậy mọi người có thể dễ dàng theo học chương trình phù hợp nhất tùy thuộc vào sở thích, năng lực cá nhân và các biến động trong thị trường nhân lực.
- Tạo ra một hệ thống ngân hàng tín chỉ có nhiệm vụ tích lũy các tín chỉ mà người học đạt được trong tiến trình học tập của mình.
- Sử dụng chuyển đổi số để mọi người có thể dễ dàng tiếp cận giáo dục.
Kết luận
Thứ nhất, cùng với các cơ sở giáo dục đại học quốc gia/vùng, các cơ sở giáo dục đại học địa phương (bao gồm các trường đại học địa phương và cao đẳng sư phạm địa phương) giữ vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của mọi quốc gia. Loại trường này phải được chính quyền và cộng đồng địa phương chăm lo bảo tồn và phát triển.
Thứ hai, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, để phát triển thuận lợi, các trường địa phương nên được tổ chức theo mô hình của trường đại học/cao đẳng cộng đồng.
Thứ ba, khuyến khích hình thành các cụm trường liên kết trên cùng địa bàn để hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời triển khai hệ thống giáo dục mở thông qua quy trình đào tạo mới, nhằm khai thác tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống.
Tài liệu tham khảo:
1. Ủy ban Cải cách giáo dục trực thuộc Tổng thống Hàn Quốc, Cải cách giáo dục cho thế kỷ XXI bảo đảm để dẫn đầu trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa, Nhà xuất bản Giáo dục, 2016.
2. Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam: Một số tư liệu về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 1987-1997, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2017.