Việc có cơ sở thực hành sư phạm trực thuộc được nhiều lãnh đạo các trường đào tạo giáo viên đánh giá là hết sức cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường sư phạm hiện nay thiếu cơ sở thực hành, hoặc có nhưng hoạt động chưa hiệu quả do vướng thủ tục và khó khăn về kinh phí.
Trường đào tạo sư phạm phát huy lợi thế từ cơ sở thực hành sư phạm trực thuộc
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Từ Quang Tân – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên bày tỏ, cơ sở thực hành trực thuộc trường đào tạo sư phạm đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm.
Theo thầy Tân, trong nội dung chương trình, việc học tập tại các cơ sở đào tạo giáo viên chỉ cung cấp kiến thức nền tảng về khoa học giáo dục, phương pháp giảng dạy và quản lý lớp học, còn cơ sở thực hành sư phạm chính là “phòng thí nghiệm sư phạm” - là nơi sinh viên được vận dụng, kiểm nghiệm và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn của bản thân.
“Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, yêu cầu đối với giáo viên ngày càng cao, đòi hỏi họ không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn thành thạo công nghệ và ngoại ngữ, năng lực sư phạm và khả năng xử lý tình huống giáo dục thực tế. Có cơ sở thực hành trực thuộc trường đại học sư phạm sẽ giúp sinh viên được trải nghiệm môi trường dạy học đa dạng, tiếp cận kịp thời những đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp và thiết bị dạy học. Đây là điều mà nếu chỉ trông chờ vào các đợt thực tập ngắn hạn ở trường phổ thông liên kết bên ngoài thì khó đảm bảo đầy đủ”, thầy Tân nhấn mạnh.

Nhìn từ thực tế đào tạo, thầy Tân thông tin, với vai trò và sứ mạng của mình, trong nhiều năm qua, Trường Trung học phổ thông Thái Nguyên – cơ sở thực hành trực thuộc Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ.
Cụ thể như phối hợp với các khoa, bộ môn để hướng dẫn thực hành, thực tập và rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên cho giảng viên, sinh viên; tạo điều kiện cho sinh viên được thực tập chuyên môn ngay từ năm thứ nhất – một lợi thế lớn khi cơ sở đào tạo có trường thực hành trong cùng hệ thống;
Phối hợp triển khai nghiên cứu, thực nghiệm khoa học giáo dục; thử nghiệm và ứng dụng các phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá và quản lý giáo dục tiên tiến vào hoạt động thực tiễn; Tổ chức thực hành sư phạm và nghiên cứu khoa học giáo dục hằng năm theo kế hoạch của trường, bao gồm tìm hiểu hoạt động giáo dục, rèn luyện kỹ năng giảng dạy, công tác chủ nhiệm, tham gia hoạt động chuyên môn cùng giáo viên; đồng thời phối hợp nghiên cứu, thể nghiệm, phổ biến các sáng kiến mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Trong khi đó, Tiến sĩ Trương Đình Thăng – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị cho rằng, nếu có trường thực hành trực thuộc thì sẽ mang lại nhiều thuận lợi, đặc biệt là giúp nhà trường chủ động hơn trong việc triển khai thực tập sư phạm cho sinh viên. Không chỉ vậy, ngay trong quá trình đào tạo, khi sinh viên chưa bước vào giai đoạn thực tập, nhà trường cũng có điều kiện tổ chức nhiều hoạt động giúp các em làm quen với môi trường giảng dạy, chuẩn bị tốt hơn cho nghề nghiệp sau này.
Tuy nhiên, thầy Thăng cũng chỉ ra rằng việc xây dựng trường thực hành tại các cơ sở đào tạo sư phạm nhiều khi còn phụ thuộc vào quyết định của địa phương, bởi e ngại việc mở thêm trường có thể làm phá vỡ quy hoạch giáo dục phổ thông đã được phê duyệt.
Đại học Cần Thơ cũng là một trong số cơ sở đào tạo có trường thực hành sư phạm trực thuộc – Trường Trung học phổ thông Thực hành Sư phạm.
Cùng đồng tình với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Anh Huy – Hiệu trưởng Trường Sư phạm, Đại học Cần Thơ, trường thực hành thuộc cơ sở đào tạo sư phạm được xem là mô hình cần thiết, tạo điều kiện cho sinh viên ngành sư phạm được thực hành, thực tập giảng dạy và dự giờ ngay trong quá trình học tập.
“Trường đào tạo sư phạm mà có cơ sở thực hành sư phạm tất nhiên có nhiều thuận lợi hơn so với trường không có. Bởi, sinh viên sư phạm rất cần môi trường này để rèn luyện nghiệp vụ và tiếp cận thực tế”, thầy Huy nhấn mạnh.
Theo thầy Huy, một điểm thuận lợi quan trọng là khi triển khai các phương pháp giảng dạy mới, đơn cử như mô hình lớp học đảo ngược, … nếu áp dụng ở các trường phổ thông bên ngoài chưa chắc đã được đồng ý. Trong khi đó, tại cơ sở thực hành trực thuộc, nhờ mối liên kết chuyên môn được đảm bảo như ở Đại học Cần Thơ, Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Thực hành Sư phạm cũng đồng thời là Phó Hiệu trưởng Trường Sư phạm nên tất yếu giúp việc triển khai các phương pháp mới trở nên thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, một số giảng viên của Trường Sư phạm còn trực tiếp tham gia giảng dạy tại trường thực hành, tạo sự gắn kết giữa đào tạo và thực tiễn.
Ngoài ra, việc tổ chức cho sinh viên đi thực tập tại các cơ sở ngoài trường phải thông qua Sở Giáo dục và Đào tạo địa phương, phải có kế hoạch theo đợt, không phải lúc nào muốn cũng tham gia được. Trong khi đó, nhờ có trường thực hành sư phạm trực thuộc trường đại học, sinh viên sư phạm có thể được bố trí thực tập ngay tại cơ sở này, phù hợp cả trong trường hợp cá nhân bận rộn nghiên cứu hoặc vì lý do cá nhân khác nên không thể tham gia tại những trường phổ thông bên ngoài. Việc sắp xếp thời khóa biểu giữa trường đại học và trường phổ thông thực hành trực thuộc thuận tiện cho sinh viên khi cùng chung một hệ thống, một địa điểm.

Tuy nhiên, cũng nảy sinh băn khoăn khi trường đại học muốn áp dụng các phương pháp giảng dạy mới tại trường thực hành. Nhiều phụ huynh lo lắng điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập của con em. Vì vậy, Ban giám hiệu và giáo viên phải chủ động tạo sự tin tưởng, đồng thời khẳng định mọi mô hình, phương pháp dạy học mới đều đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi triển khai.
Thực tế cho thấy, học sinh của nhiều trường thực hành thường được tiếp cận những phương pháp học tập hiện đại trước so với các trường phổ thông khác, và vẫn đảm bảo kết quả học tập, từ kết quả kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông đến đạt giải cao trong nhiều kỳ thi, qua đó dần tạo dựng niềm tin với phụ huynh.
Mặc dù vậy, Phó Giáo sư Huỳnh Anh Huy cũng cho rằng cơ sở thực hành bên ngoài vẫn giữ vai trò quan trọng. Sinh viên cần có cơ hội được so sánh, trải nghiệm thực tế giảng dạy ở nhiều vùng miền khác nhau, bởi mỗi địa phương đều có đặc thù riêng về điều kiện và phương thức giáo dục.
Không có cơ sở thực hành, trường sư phạm phải phụ thuộc nhiều hoạt động vào bên ngoài
Từ thực tế, thầy Tân nhận thấy, khi không có cơ sở thực hành trực thuộc, các trường sư phạm thường phải phụ thuộc hoàn toàn vào các trường phổ thông bên ngoài để tổ chức thực tập, kiến tập, triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và thực hiện các nhiệm vụ gắn với các hoạt động chuyên môn, chuyên sâu của của các khoa, phòng đồng thời gây ra một số bất cập.
Thứ nhất, bị động và thiếu đồng bộ. Thời gian, nội dung, phương pháp tổ chức thực tập phụ thuộc vào kế hoạch của trường liên kết, khó đảm bảo tính liên tục và đồng bộ với chương trình đào tạo. Trường sư phạm không có khả năng điều chỉnh, đổi mới nội dung thực hành phù hợp với yêu cầu đào tạo mới.
Thứ hai, giới hạn về môi trường thử nghiệm. Sinh viên ít có cơ hội thực hành thử nghiệm phương pháp mới hoặc tiếp cận các mô hình giáo dục tiên tiến nếu trường đối tác chưa áp dụng. Việc đánh giá sinh viên phần đa vẫn theo lối tư duy cũ, ít có sự thay đổi.
Thứ ba, khó đánh giá chính xác năng lực nghề nghiệp do điều kiện thực tập mỗi nơi một khác. Lúc này, trường sư phạm do phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả đánh giá của cơ sở liên kết nên khó theo sát và đánh giá toàn diện kỹ năng của sinh viên.
Tuy nhiên, thầy Tân nhìn nhận, hiện nay, có nhiều nguyên nhân khiến nhiều trường đào tạo sư phạm chưa có cơ sở thực hành trực thuộc.
Trước hết là, do nguồn lực tài chính hạn chế. Việc xây dựng và vận hành trường thực hành cần đầu tư lớn cho cơ sở vật chất, trả lương giáo viên, duy trì hoạt động dạy học. Đây là gánh nặng đối với nhiều cơ sở đào tạo vốn đang phải tiết kiệm chi phí vì đang trong lộ trình tự chủ.
Bên cạnh đó, do vướng mắc về thủ tục pháp lý. Quy trình thành lập, cấp phép, quản lý còn rườm rà; phân cấp giữa Bộ, Sở Giáo dục và Đào tạo và nhà trường chưa rõ ràng. Một số cơ sở hiện có cũng gặp vướng mắc về học phí, kinh phí do chưa có cơ chế riêng.
Không những vậy, thiếu quỹ đất và điều kiện hạ tầng. Nhiều trường sư phạm hiện nay nằm ở khu vực trung tâm đô thị, khó bố trí mặt bằng để xây dựng trường thực hành. Nhiều tỉnh/thành cũng chưa thực sự quan tâm đến vấn đề quy hoạch các trường thực hành trực thuộc các trường sư phạm do không thuộc quyền quản lý.
Ngoài ra, chưa có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ. Hiện nay, việc có hay không có cơ sở thực hành chưa được quy định như một tiêu chí bắt buộc hoặc gắn liền với quyền lợi rõ ràng, khiến các trường sư phạm chưa quyết tâm đầu tư.
Từ thực tế trên, theo thầy Tân, để đảm bảo chất lượng đào tạo giáo viên cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở thực hành trực thuộc các trường đào tạo sư phạm cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó quy định về luật và chính sách nhà nước đóng vai trò then chốt, quyết định.
Một là, cơ sở thực hành trực thuộc các trường đào tạo sư phạm phải trở thành điều kiện bắt buộc, là tiêu chí đánh giá chất lượng, xếp hạng các trường đào tạo sư phạm. Theo đó, trong các văn bản pháp luật về tiêu chuẩn cơ sở đào tạo sư phạm (Luật Giáo dục, nghị định, thông tư hướng dẫn) nên quy định rõ mỗi trường sư phạm phải có cơ sở giáo dục thực hành trực thuộc hoặc cơ sở liên kết chiến lược, được bảo đảm quyền chủ động trong tổ chức thực hành cho sinh viên. Chỉ khi quy định bắt buộc thì mới tạo cơ chế khuyến khích cho tổ chức các cơ sở thực hành trực thuộc các trường sư phạm.
Hai là, phải có cơ chế ưu tiên ngân sách và đất đai. Nhà nước và địa phương cần dành quỹ đất, ngân sách đầu tư xây dựng, cải tạo cơ sở vật chất, trang thiết bị, cấp kinh phí hoạt động cho trường thực hành. Để làm được việc này, có thể lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu về giáo dục và đào tạo cho xây dựng và hỗ trợ thành lập các cơ sở thực hành trực thuộc các trường đào tạo sư phạm. Đồng thời, có cơ chế cụ thể cho mô hình hợp tác công - tư: Khuyến khích các trường sư phạm hợp tác với doanh nghiệp, tổ chức giáo dục tư nhân để xây dựng cơ sở thực hành, vừa giảm gánh nặng ngân sách, vừa tạo điều kiện đa dạng hóa mô hình.
Ba là, cần ban hành cơ chế quản lý linh hoạt. Cần cho phép trường sư phạm tự quyết định chương trình, phương pháp dạy học, mô hình quản lý, định mức thu học phí tại trường thực hành để trở thành thành “phòng thí nghiệm đổi mới giáo dục” thực sự; là môi trường để học sinh phát huy năng lực, phẩm chất cần thiết; nơi chắp cánh và lan tỏa thông điệp sống tích cực, sống nhân nghĩa, trách nhiệm cho thế hệ trẻ.