Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26 tháng 6 năm 2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi với nhiều điểm mới nổi bật.
Trong đó, Điều 20 của dự thảo nêu rõ mức hưởng chính sách đối với cơ sở giáo dục mầm non công lập. Những quy định này đã thu hút sự quan tâm, đóng góp ý kiến từ nhiều lãnh đạo trường mầm non ở vùng khó khăn. Đáng chú ý, không ít ý kiến còn băn khoăn về mức hỗ trợ trực trưa 700.000 đồng/tháng cho giáo viên mầm non cũng như mức hỗ trợ 1m3 nước/học sinh/tháng.
Giáo viên phấn khởi vì có thêm kinh phí mua đồ dùng, học liệu học tập, chăn, màn cho học sinh
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Lại Thị Hoa - Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Mai (xã Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông) bày tỏ: “Từ năm học 2025 - 2026, chương trình phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi được thực hiện, giáo viên nhà trường vô cùng phấn khởi, phụ huynh cũng rất vui mừng. Đây là sự thay đổi lớn trong giáo dục, mang lại hy vọng cho cả phụ huynh và giáo viên ở những địa phương còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, dù từ năm học sắp tới, học sinh được hỗ trợ học phí, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều khoản chi phí khác mà nhà trường và phụ huynh phải lo liệu. Đối với địa phương mà người dân còn nhiều khó khăn như xã Tuy Đức, để phụ huynh yên tâm đưa trẻ đến trường, rất cần những chính sách hỗ trợ đồng bộ cho các em.
Theo cô Hoa, bên cạnh khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị học tập, việc chuẩn bị đồ dùng học tập và đồ dùng cá nhân cho học sinh vẫn gặp nhiều khó khăn. Những năm học gần đây, giường cho trẻ ngủ luôn trong tình trạng thiếu hụt. Do đời sống người dân còn nhiều khó khăn, nhà trường không thể huy động nguồn xã hội hóa để mua mới đồ dùng cho trẻ, dẫn đến tình trạng khi số lượng giường bị hao hụt do hỏng hóc, thì không đủ giường đáp ứng nhu cầu chỗ nằm cho các em.
Do đó, dự thảo nghị định đưa ra mức kinh phí hỗ trợ là 1.350.000 đồng/trẻ em từ 3 - 5 tuổi bán trú/năm học để mua đồ dùng, học liệu học tập, chăn, màn và các đồ dùng cá nhân là rất nhân văn và phù hợp tình hình thực tế.
Đối với mức hỗ trợ tiền điện, nước phục vụ học tập và sinh hoạt của học sinh từ 3 - 5 tuổi bán trú với định mức là 5KW điện/tháng/trẻ em và 1m3 nước/tháng/trẻ em theo giá quy định tại địa phương rất thiết thực, giúp các trường giảm bớt áp lực chi phí vận hành.
“Trước đây, tỉnh Đắk Nông (cũ) cho phép các trường mầm non trên địa bàn được thu tiền điện từ phụ huynh. Tuy nhiên, nhà trường cần tính tổng chi phí điện năng trường sử dụng là bao nhiêu và phần điện phục vụ trực tiếp cho trẻ chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong tổng chi phí đó.
Việc tách bạch, tính toán cụ thể như vậy là rất khó thực hiện, do đó, dù có quy định cho phép, nhưng nhà trường vẫn không thu khoản tiền này từ phụ huynh. Vì vậy, việc quy định hỗ trợ tiền điện, nước tính trên từng trẻ là hợp lý, bởi cách làm này rõ ràng, minh bạch và thuận lợi cho các trường khi triển khai trong thực tiễn”.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, cô Nguyễn Thị Thanh - Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Phượng (xã Kon Đào, tỉnh Quảng Ngãi) cho biết: “Theo dự thảo nghị định, mục tiêu đến năm 2030, các vùng khó khăn nằm trong quy định có đủ trường lớp, đảm bảo 1 phòng học/lớp mẫu giáo, 100% phòng học kiên cố, có đủ các phòng chức năng, thư viện trường mầm non, đủ đồ chơi ngoài trời, đồ chơi trong lớp và thiết bị dạy học theo quy định.
Đây cũng là những hạng mục nằm trong mục tiêu xây dựng trường chuẩn quốc gia mà địa phương đặc biệt quan tâm. Nhà trường đã tham mưu với các cấp chính quyền địa phương để có giải pháp triển khai xây dựng trường học kiên cố, thư viện phục vụ nhu cầu học tập của học sinh.
Nhà trường kỳ vọng khi dự thảo nghị định đi vào thực tế sẽ tạo thêm động lực để địa phương và nhà trường phấn đấu đạt trường chuẩn quốc gia theo lộ trình đã đề ra. Khi cơ sở vật chất được đảm bảo, chất lượng dạy và học được nâng cao, góp phần thực hiện tốt mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi”.
Cũng theo cô Thanh, Trường Mầm non Hoa Phượng thuộc vùng đặc biệt khó khăn, nhà trường còn gặp nhiều vướng mắc trong việc chuẩn bị đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân cho học sinh vào đầu năm.
Ví dụ, đầu năm phụ huynh phải đóng khoảng 200.000 đồng để nhà trường chuẩn bị giường, chăn, màn, chiếu, gối cá nhân cho học sinh. Một số gia đình khó khăn không có khả năng đóng khoản phí này, giáo viên phải đi xin lại đồ dùng của những học sinh vừa học mầm non xong, sau đó mang về giặt giũ hoặc nhận từ các mạnh thường quân để hỗ trợ học sinh. Ngay cả những gia đình ở khu vực thuận lợi nhưng thu nhập hạn chế, việc đóng góp các khoản chuẩn bị đầu năm cho học sinh cũng là gánh nặng.
Bên cạnh đó, nhiều năm qua, bộ thiết bị dạy học tối thiểu dành cho bậc học mầm non tại trường được cấp phát với số lượng rất hạn chế, chưa đầy đủ theo danh mục. Một số thiết bị thiết yếu như tủ tư trang, dụng cụ thể chất, học liệu toán, đồ dùng trực quan, đồ chơi ngoài trời... vẫn chưa được trang bị đầy đủ. Hiện tại, trang thiết bị trong lớp học mới chỉ đáp ứng được khoảng 30-40% nhu cầu nuôi dạy và học tập, phần lớn đồ dùng phục vụ giảng dạy đều do giáo viên tự làm để đảm bảo hoạt động học tập cho trẻ.
Từ những khó khăn khăn trên, cô Thanh nhận định, dự thảo có mức hỗ trợ cụ thể 1.350.000 đồng cho trẻ em từ 3 - 5 tuổi học bán trú rất phù hợp và chính đáng, tạo điều kiện thuận lợi để nhà trường trang bị đồ dùng thiết yếu phục vụ học sinh, giúp các em yên tâm học tập trong môi trường đầy đủ hơn.
Đối với mức hỗ trợ điện, nước phục vụ học sinh, cô Thanh đánh giá mức hỗ trợ 5 KW điện/tháng/trẻ em là hợp lý với nhu cầu sử dụng của học sinh. Tuy nhiên, định mức hỗ trợ 1m3 nước/tháng/học sinh phục vụ sinh hoạt, học tập cho các em là khá thấp. Do đó, Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Phượng đề xuất định mức hỗ trợ nước có thể cân nhắc nâng lên để phù hợp hơn với thực tế tại trường mầm non.

Trong khi đó, cô Phạm Thị Nguyệt - Hiệu trưởng Trường Mầm non Ánh Dương (xã Đăk Tờ Kan, tỉnh Quảng Ngãi) cho hay, các mức trợ cấp cho học sinh bán trú 3-5 tuổi tại dự thảo được đưa ra tương tự như mức trợ cấp cho trẻ em nhà trẻ bán trú tại Khoản 1, Điều 7, Nghị định 66/2025/NĐ-CP quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách.
Đây là một bước tiến quan trọng và cần thiết, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với bậc học mầm non, nhất là ở những địa bàn còn nhiều khó khăn. Nếu chính sách đi vào thực tiễn không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng cho phụ huynh mà còn tạo điều kiện để công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi đạt hiệu quả cao nhất.
Đặc biệt, tại dự thảo có quy định kinh phí hỗ trợ tổ chức nấu ăn cho trẻ em mầm non từ 3 - 5 tuổi được tính trên số lượng trẻ em từ 3 - 5 tuổi được ăn bán trú, tối thiểu bằng 3.900.000 đồng/1 tháng/45 trẻ em, số dư từ 20 trẻ em trở lên được tính thêm một lần mức hỗ trợ.
Trong khi đó, hiện nay, theo Nghị định số 105/2020/NĐ-CP quy định chính sách phát triển mầm non, với trường mầm non ở xã thuộc vùng khó khăn, kinh phí hỗ trợ tổ chức nấu ăn cho trẻ em mầm non được tính trên số lượng trẻ em được ăn bán trú, tối thiểu bằng 2.400.000 đồng/1 tháng/45 trẻ em, số dư từ 20 trẻ em trở lên được tính thêm một lần mức hỗ trợ.
Như vậy, quy định mới này đồng nghĩa với việc mức hỗ trợ đã được nâng lên đáng kể so với trước đây, góp phần giảm áp lực tài chính cho nhà trường và phụ huynh. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các trường tổ chức bữa ăn bán trú đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ.
Đề xuất điều chỉnh mức hỗ trợ trực trưa cho giáo viên
Điểm c, Khoản 1, Điều 20, dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 nêu giáo viên được hỗ trợ kinh phí để thực hiện quản lý buổi trưa đối với nhóm trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Cụ thể:
Mỗi nhóm 25 trẻ em từ 3 - 4 tuổi, trong đó ít nhất có 8 trẻ em từ 3 đến 4 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức; Mỗi nhóm 30 trẻ em từ 4-5 tuổi, trong đó ít nhất có 10 trẻ em từ 4 đến 5 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức; Mỗi nhóm 35 trẻ em từ 5 - 6 tuổi, trong đó ít nhất có 15 trẻ em từ 5 đến 6 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức là 700.000 đồng/tháng/nhóm trẻ em và được hưởng không quá 9 tháng/năm học.
Số dư từ 50% trở lên so với số trẻ em từ 3 đến 5 tuổi và số trẻ em từ 3 đến 5 tuổi bán trú của mỗi nhóm thì được tính 01 định mức.
Theo Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Mai, mức hỗ trợ trực trưa cho giáo viên là 700.000 đồng/tháng là điểm rất đáng ghi nhận trong dự thảo nghị định, tuy nhiên, mức này chưa tương xứng với nhiệm vụ và công việc các giáo viên phải đảm nhiệm.
Mỗi ngày giáo viên trực trưa từ 10 giờ 30 đến 13 giờ 30 (trung bình 3 tiếng/ngày). Với mức hỗ trợ chỉ 700.000 đồng/tháng, chia ra mỗi tháng khoảng 20-22 ngày làm việc, số tiền nhận được khá khiêm tốn so với thời gian và công sức mà giáo viên đã bỏ ra.
“Giáo viên mầm non vẫn ở lại trông trẻ buổi trưa vì tinh thần trách nhiệm và tình thương học trò, dù thu nhập cho công việc này khá khiêm tốn. Nếu có cơ chế hỗ trợ phù hợp hơn, dựa trên khối lượng công việc thực tế, chắc chắn sẽ tạo thêm động lực, khích lệ cho giáo viên mầm non vùng khó”, cô Hoa cho biết.
Đồng tình với quan điểm trên, Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Phượng cho rằng, mức hỗ trợ trực trưa cho giáo viên mầm non là rất đáng trân trọng, ghi nhận tâm huyết của các cô giáo. Tuy nhiên, mức hỗ trợ 700.000 đồng/tháng chưa thực sự tương xứng với tâm sức giáo viên bỏ ra.

Theo Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương dạy thêm giờ đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập hiện hành, tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4 cách tính tiền lương dạy thêm giờ quy định: Tiền lương 01 giờ dạy thêm = Tiền lương 1 giờ dạy x 150%.
Như vậy, giờ trực trưa của giáo viên mầm non được coi là giờ dạy thêm, nếu tính toán dựa trên Thông tư liên tịch số 07, thu nhập thực tế mà giáo viên trông trẻ buổi trưa có thể được chi trả lên tới 2 triệu đồng/tháng.
“Với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, giáo viên nhận được mức hỗ trợ trực trưa đã là điều rất phấn khởi. Song, số tiền hỗ trợ nên được nâng lên mức hợp lý hơn để đảm bảo đời sống cho giáo viên.
Thực tế, tại nhà trường, khi huy động nguồn xã hội hóa, mức chi trả cho giáo viên trông trẻ buổi trưa hiện khoảng 1,2 triệu đồng/tháng. Tôi mong muốn chính sách sẽ được cân nhắc, tính toán trên cơ sở sát với thực tế hơn, để vừa động viên tinh thần, vừa giúp giáo viên yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với nghề”, cô Thanh bày tỏ.