Các anh đã vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển bao la sâu thẳm

30/04/2015 06:10
Đại tá - PGS.TS Hồ Khang
(GDVN) - Liên tục từ 1961 – 1975, những chiến sĩ bình dị của Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại đã vận hành 1.789 chuyến tàu không số.

TLS: Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường huyền thoại đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc – giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Đại tá – PGS.TS Hồ Khang – Viện lịch sử quân sự Việt Nam nhận định, có lẽ trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, chưa có con đường vận tải chiến lược nào được bảo mật, nguỵ trang độc đáo và thành công đến thế.

 Mở đường bí mật đưa bộ đội và vũ khí vào miền Nam

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, nhưng hai miền Nam – Bắc còn bị chia cắt, nhân dân miền Nam còn phải chịu sự đàn áp dã man của kẻ thù. Vì miền Nam, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết đánh bại quân xâm lược, thu non sông về một mối, Bắc – Nam sum họp một nhà.

Để thực hiện ý nguyện đó, Đảng ta chủ trương nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam bằng những tuyến đường vận tải chiến lược.

Mở đường vì miền Nam ruột thịt là mệnh lệnh của cả nước nhằm cung cấp vũ khí, trang bị kỹ thuật thúc đẩy Cách mạng miền Nam phát triển. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (khoá II, năm 1959) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Nghị quyết lịch sử; trong đó xác định: “Kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.

Bến Cồn Tàu (tỉnh Trà Vinh) là một mắt xích quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển giúp miền Bắc vận chuyển vũ khí vào Nam. ảnh: vne.
Bến Cồn Tàu (tỉnh Trà Vinh) là một mắt xích quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển giúp miền Bắc vận chuyển vũ khí vào Nam. ảnh: vne.

Nghị quyết Trung ương 15 đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng thành phong trào Đồng khởi, đưa Cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn tiến công tiêu diệt địch.

Tiếp đó ngày 24/1/1961, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định “đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự”; đồng thời “tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng”.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta chỉ đạo mở những tuyến đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến nhằm bổ sung lực lượng, vũ khí, trang bị và các nhu cầu bảo đảm khác cho Cách mạng miền Nam.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương trực tiếp chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực nghiên cứu mở đường; đến giữa năm 1959, tuyến vận tải chiến lược trên bộ được khai thông, kịp thời chi viện cho các vùng căn cứ miền rừng. Nhưng đối với chiến trường miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng Nam Bộ thì tuyến đường này không vươn tới được.

Trong khi đó, cuộc đấu tranh ở đây đang diễn ra quyết liệt từng giây, từng phút và yêu cầu chi viện sức người, sức của, nhất là vũ khí để chiến đấu, trở thành yêu cầu cấp thiết, quyết định đến sinh mệnh đồng bào và chiến sĩ.

Trước tình hình đó, tháng 7/1959, Bộ Chính trị, Tổng Quân uỷ Trung ương quyết định tổ chức đường vận tải quân sự trên biển nhằm chi viện cho các tỉnh vùng duyên hải miền Trung và Đồng bằng Nam Bộ.

Để thiết lập tuyến đường vận tải chiến lược trên biển, ta đã nhiều lần tổ chức các đoàn vượt biển thăm dò và khai thông tuyến vận tải độc đáo đi thẳng vào nơi địch mạnh nhưng lại rất sơ hở, thiếu phòng bị.

Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ quy luật của thiên nhiên, hải đồ, nhất là hoạt động của địch làm cơ sở để Trung ương chỉ đạo công tác vận chuyển quân sự đường biển.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, tháng 7/1959, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ thiêng liêng này cho Tổng cục Hậu cần. Đơn vị được mang biệt danh Đoàn 759 với 38 chiến sĩ và 6 chiếc thuyền gỗ thô sơ, được giao nhiệm vụ chở 5 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men cho tỉnh Quảng Nam (quân khu V), với yêu cầu phải bảo đảm tuyệt đối bí mật.

Chuyến vượt biển đầu tiên của Đoàn 759 tuy chưa thành công, song đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Rút kinh nghiệm chuyến hàng đầu tiên, Bộ Quốc phòng đã kịp thời chỉ đạo tạm ngừng tính toán, lựa chọn nhiều phương án cho mỗi hành trình.

Mặt khác, Trung ương Đảng chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ vừa chuẩn bị bến bãi, vừa tổ chức tàu, thuyền vượt biển ra Bắc nhận vũ khí nhằm thăm dò, nghiên cứu, xác định tuyến đường…

Đây là một quyết định đúng đắn, sáng tạo và khoa học. Các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu có nhiều kinh nghiệm vượt biển trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gấp rút chuẩn bị lực lượng, tàu, thuyền ra Bắc nhận vũ khí. Từ 1961 – 1962 có 6 chiếc thuyền đột phá ra Bắc, chỉ một chiếc phải quay về vì lý do kỹ thuật.

Chuyến đi của những người con Nam Bộ thành đồng đã nắm bắt được quy luật, cung cấp được những luận cứ giúp Trung ương phân tích, đánh giá tình hình, xây dựng tuyến vận tải chiến lược – Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Tàu “Phương Đông 1” mở ra hành trình lịch sử

Tháng 4/1962, Quân uỷ Trung ương quyết định cử đồng chí Bông Văn Dĩa – Một chiến sĩ vượt biển kỳ cựu của đội thuyền tỉnh Bạc Liêu, ngay từ năm 1947 đã điều khiển thuyền buồm đi Thái Lan để mua vũ khí, chở về cho Nam Bộ.

Trở về bằng chính chiếc tàu năm trước anh đã vượt biển ra Bắc. Lần trở về này, tàu anh chưa vận chuyển vũ khí, mà ra đi với mục đích tiếp tục thăm dò, xây dựng phương án.

Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ thuật tình hình các chuyến đi thăm dò hai chiều Nam – Bắc, Bắc – Nam và chỉ đạo chặt chẽ công tác chuẩn bị tàu, thuyền, xây dựng phương án, Quân uỷ Trung ương, trực tiếp là đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng đã lựa chọn đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách chiếc tàu đầu tiên chở vũ khí vào Nam.

Đêm 12/10/1962, chiếc tàu “Phương Đông 1” gồm 10 thuỷ thủ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) đi về phương Nam.

Đến sáng 19/10/1962, tàu vào tới Chùm Gọng (Vàm Lũng, Tân An) an toàn. Tàu “Phương Đông 1” đã đi vào lịch sử, chính thức khai thông tuyến vận tải quân sự đường biển – Tuyến vận tải chiến lược – Đường Hồ Chí Minh trên biển – bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Những con tàu làm nên đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường huyền thoại. ảnh: quân đội.
Những con tàu làm nên đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường huyền thoại. ảnh: quân đội.

Sau chuyến đi thành công của tàu “Phương Đông 1”, ba chiếc tàu khác cũng cập bến Cà Mau an toàn; cùng với các bến Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa hình thành các cụm bến đón nhận những chuyến hàng đầu tiên của tuyến vận tải Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Sau các chuyến tàu thăm dò là những chiến công thầm lặng nối liền với những chiếc công đã viết nên huyền thoại. Để các chuyến hàng như “dòng máu chảy về tim”, Bộ Chính trị chỉ đạo Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Quân chủng Hải quân kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm qua mỗi chuyến đi; đẩy mạnh việc cải tiến phương tiện, đổi mới phương thức, xây dựng lực lượng và nguyên tắc vận chuyển.

Nhờ đó, Đường Hồ Chí Minh trên biển vận hành ngày càng chủ động, hiệu quả hơn.

Có lẽ, trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, chưa có con đường vận tải chiến lược nào được bảo mật, nguỵ trang độc đáo và thành công đến thế.

Mặc dù lúc đầu chỉ là những chiến thuyền thô sơ, trọng tải nhỏ, với lộ trình bám dọc bờ biển, rồi nhanh chóng phát triển thành hàng trăm chiếc tàu sắt trọng tải lớn không những hoạt động trong vùng biển của ta, mà còn vươn ra hải phận quốc tế.

Những con tàu không số đều chở nặng vũ khí, trang bị, được nguỵ trang khéo léo. Cùng với đó là phương thức vận chuyển cũng được phát triển ngày càng linh hoạt, sáng tạo: Lúc biển xa, khi biển gần và sự nhạy bén trong việc lựa chọn bến bãi, lợi dụng địa hình, thuỷ triều, thời tiết… đã giúp chúng ta vượt qua những phòng tuyến nghiêm ngặt của kẻ thù, cung cấp vũ khí, trang bị cho tuyến lửa miền Nam.

Nếu tính từ chuyến tàu “Phương Đông 1” đầu tien đến chuyến tàu thứ 148 vào bến Vũng Rô (15/2/1965), ta đã có 87 chuyến tàu xuất bến đều tới đích, chỉ riêng có một chuyến (10/10/1963) phải quay về.

Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, với mọi khó khăn, thử thách, dường như vượt qua mọi giới hạn chịu đựng của con người. Nhưng các chiến sĩ của những con tàu không số đã khéo léo nghi binh, lừa địch, táo bạo bất ngờ, đi trong lòng địch, càng đi càng tỉnh táo, quyết đoán.

Sự tồn tại của Đường Hồ Chí Minh trên biển và những chuyến vượt biển thành công của các chuyến tàu không số là kết quả của trình độ chỉ huy, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa lực lượng bốc dỡ, vũ trang chiến đấu, cứu thương, thông tin vô tuyến điện… và các cơ quan tham mưu, chính trị, kỹ thuật, hậu cần, hệ thống bến bãi, kho tiếp nhận, bảo quản, phân phối hàng. Tất cả các lực lượng hoạt động trong sự điều hành thống nhất từ Trung ương.

Trên tất cả, Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến đường của “thế trận lòng dân” trong thế trận chiến tranh nhân dân phát triển. Dựa vào dân, có sự chở che, giúp đỡ, hỗ trợ hét lòng nhân dân, tuyến vận tải chiến lược trên biển đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách khốc liệt, gian nan, vất vả, vượt qua mọi sự phong toả của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước nhanh chóng đi đến thắng lợi.

Đối đầu với Hải quân Mỹ, nguỵ mạnh hơn ta nhiều lần về vũ khí, trang bị, nhưng bằng ý chí, sức mạnh tinh thần, nỗ lực, can trường, lòng quả cảm và được nhân dân chở che, trong suốt 14 năm liên tục (1961 – 1975), những chiến sĩ bình dị của Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại đã vận hành 1.789 chuyến tàu không số, vận chuyển 150.000 tấn vũ khí trang bị và 80 nghìn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 400 quả thuỷ lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu 300 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu, xuồng của địch.

Nhiều chiến sĩ nằm lại nơi biển xanh sâu thẳm

Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, thực hiện chỉ thị “thần tốc” – “đại thần tốc” của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thần tốc vận chuyển 130 lượt với 143 chuyến tàu, chở 8.741 tấn vũ khí hạng nặng, gồm 50 xe tăng và đại pháo; đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 65.721 hải lý để kịp tham gia chiến đấu; hiệp đồng tác chiến với cánh quân đường bộ.

Những chiếc công của tuyến đường huyền thoại trên biển chính là những kỳ tích lịch sử, được làm nên bởi trí tuệ, lòng yêu nước, sức mạnh của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và khát vọng hoà bình, khát vọng về một ngày mai tươi sáng.

Âm thầm, lặng lẽ chở nặng nghĩa tình, vũ khí, trang bị từ miền Bắc đến miền Nam, Đường Hồ Chí Minh trên biển cũng gánh chịu không ít những tổn thất, hy sinh. Đó là việc bắt buộc phải cho nổ Tàu 143 Vũng Rô (2/1965); có hàng chục chuyến tàu xuất bến phải quay về. Trong số 168 con tàu đã ra đi từ năm 1966 – 1972, có 8 con tàu đã phải phá huỷ để xoá dấu vết nhằm bảo đảm bí mật tuyệt đối của tuyến đường huyết mạch.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này, đã có 117 cán bộ, chiến sĩ hy sinh quên mình trên biển. Những chiến sĩ như Phan Vinh, Huỳnh Ngọc Thạch, Nguyễn Chánh Tâm… và bao đồng chí khác đã vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển bao la, sâu thẳm.

Trong chặng vượt biển cuối cùng, các anh đã không thể cùng đồng đội đi trọn quãng đường, ở lại với biển khơi, với sóng gió. Chính các anh cùng đồng đội đã dệt nên huyền thoại bằng tuổi thanh xuân, nhiệt huyết của mình cho ngày toàn thắng.

Tên tuổi các anh là những bài ca đi cùng năm tháng; các anh mãi mãi là những người lính hải quân trên những con tàu đi về vầng dương, nhắn nhủ thế hệ trẻ hôm nay tự soi mình và ngẫm về nghĩa vụ, trách nhiệm, tình yêu đối với quê hương, đất nước và biển đảo của Tổ quốc.

Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ và tri ân các anh, những chiến sĩ đã làm nên kỳ tích Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Đại tá - PGS.TS Hồ Khang