Ngay từ khi thành lập, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đã xác định chất lượng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, do đó hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong được nhà trường xây dựng bài bản và vận hành như một cơ chế quản trị chiến lược.
Trường Đại học Nguyễn Tất Thành sử dụng đa dạng bộ công cụ đánh giá chất lượng, từ kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng, gắn sao, đến đối sánh với các chuẩn mực trong nước và quốc tế. Đây không chỉ là yêu cầu tuân thủ theo quy định, mà còn là cách tiếp cận hiệu quả để thúc đẩy cải tiến liên tục.
Kết quả cho thấy, nhà trường đã hoàn thành chu kỳ 2 kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục với 97% tiêu chí đạt và có 45 chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng giáo dục, trong đó 7 chương trình được tái kiểm định lần 2 và 8 chương trình đạt tiêu chuẩn kiểm định của Tổ chức Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA).
Nhà trường đồng thời ghi dấu ấn trên các bảng xếp hạng uy tín của thế giới: Times Higher Education World University Rankings: #1001–1200; QS Asia University Rankings: #400–500; Times Higher Education Impact Rankings: #301–400; Hệ thống Đối sánh Chất lượng Giáo dục đại học UPM: 5 sao.
Thành tựu quan trọng nhất của đảm bảo chất lượng giáo dục không nằm ở chứng nhận hay thứ hạng, mà ở sự hài lòng của các bên liên quan: người học có việc làm tốt hơn, doanh nghiệp đánh giá cao chất lượng nhân lực, và quy mô cũng như chất lượng tuyển sinh của nhà trường liên tục tăng trưởng qua từng năm.
Hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục đại học gồm bảo đảm chất lượng bên trong và bảo đảm chất lượng bên ngoài. Thời gian qua, hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đã được Trường Đại học Nguyễn Tất Thành đặc biệt quan tâm, nhất là công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng.
Động lực cải tiến và phát triển của nhà trường
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Ái Cầm - Hiệu trưởng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cho biết, nhà trường xác định công tác bảo đảm chất lượng là một hành trình.
“Thời gian qua, nhờ sự thống nhất nhận thức từ Ban lãnh đạo đến từng cán bộ, giảng viên rằng kiểm định chất lượng giáo dục là công cụ quản trị đồng thời cả chất lượng và thương hiệu, quá trình tự đánh giá và bảo đảm chất lượng tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành được triển khai thuận lợi, có định hướng và đạt hiệu quả cao. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với các trường đại học trẻ và tư thục, khi cần khẳng định uy tín và năng lực cạnh tranh trong hệ thống giáo dục đại học”, cô Cầm chia sẻ.
Bên cạnh đó, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cũng có nhiều thuận lợi khi được đầu tư bài bản về công cụ, bộ máy và con người để phục vụ công tác tự tác đánh giá và bảo đảm chất lượng.
Cụ thể, nhà trường sử dụng linh hoạt và đối sánh nhiều bộ tiêu chuẩn kiểm định, xếp hạng và gắn sao khác nhau, từ chuẩn quốc gia đến chuẩn khu vực và quốc tế. Từ đó giúp đánh giá toàn diện các chiều cạnh của chất lượng. Hệ thống bảo đảm chất lượng được tổ chức xuyên suốt đến từng khoa, với đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng năng lực về quản trị chất lượng, phát triển chương trình đào tạo, phương pháp dạy học và đánh giá theo tiếp cận hiện đại.
"Việc duy trì cam kết của lãnh đạo, đầu tư nguồn lực và hình thành văn hóa bảo đảm chất lượng giáo dục theo thời gian đã tạo nên sự đồng thuận nội bộ, biến công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng không chỉ là yêu cầu tuân thủ mà trở thành động lực cải tiến và phát triển của Nhà trường"
_Tiến sĩ Trần Ái Cầm chia sẻ_
Chậm thay đổi nhận thức và năng lực chính là điểm nghẽn
Bên cạnh những thuận lợi, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học còn đối mặt với một số khó khăn.
Theo chia sẻ của Tiến sĩ Trần Ái Cầm, khó khăn lớn nhất trong công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng không nằm ở kỹ thuật hay quy trình, mà nằm ở nhận thức và thống nhất quan điểm về “chất lượng”.
Khái niệm “chất lượng giáo dục” vốn trừu tượng và mỗi bên liên quan lại có cách hiểu khác nhau. Ví dụ như: nhà đầu tư nhìn chất lượng ở hiệu quả đầu tư và tăng trưởng quy mô; nhà khoa học nhìn vào công bố và thành tích nghiên cứu; người học quan tâm đến việc làm và mức lương; doanh nghiệp lại đánh giá qua năng lực đáp ứng yêu cầu công việc.
“Khi các quan điểm trên không đồng nhất, việc xác lập một mục tiêu chất lượng chung cho toàn hệ thống trở nên khó khăn”, Tiến sĩ Cầm nhận định.
Ngoài ra, một khó khăn khác trong quá trình thực hiện tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học là có sự khác biệt giữa tư duy dài hạn và yêu cầu ngắn hạn. Một bộ phận quan tâm đến nguyên lý, quy trình, đối sánh, và phát triển bền vững chất lượng; trong khi nhóm khác chỉ tập trung vào kết quả trước mắt hoặc coi tự đánh giá là công việc hành chính mang tính “thủ tục”, chưa nhận thức đúng đây là công cụ quản trị và đổi mới.
Bên cạnh đó, kiểm định chất lượng giáo dục đại học ở nước ta còn phải tuân thủ nhiều quy định pháp luật, tiêu chuẩn và thủ tục, làm tăng áp lực lên đội ngũ trong quá trình triển khai.
“Trong bối cảnh giáo dục đang thay đổi nhanh bởi chuyển đổi số và toàn cầu hóa, sự chậm thay đổi về nhận thức và năng lực của nhân lực trở thành điểm nghẽn lớn nhất. Nếu không thống nhất được quan điểm về chất lượng và mục tiêu chất lượng trong từng giai đoạn, thì dù có bộ tiêu chuẩn tốt hay nguồn lực đầu tư đầy đủ, việc tự đánh giá và cải tiến chất lượng cũng khó đạt hiệu quả”, Tiến sĩ Trần Ái Cầm chia sẻ.
Từ những khó khăn trong thực tiễn, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, điều quan trọng nhất là giải quyết điểm nghẽn về nhận thức chất lượng.
Thứ nhất, chúng ta cần xác định rằng, tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục không phải là hoạt động hành chính hay làm hồ sơ đối phó, mà là một quá trình học hỏi và đổi mới. Nếu hiểu đúng, mỗi đơn vị và mỗi cá nhân sẽ xem đây là cơ hội để nhìn lại, xác định vấn đề và cải tiến liên tục.
Thứ hai, nhà trường cần thống nhất tư duy rằng chất lượng là những gì có thể đo lường và tạo ra giá trị cho người học và các bên liên quan. Do đó, thay vì tập trung quá nhiều vào kỹ thuật hay quy trình, cần thúc đẩy tư duy đơn giản - thiết thực - sáng tạo, coi minh chứng là sản phẩm tự nhiên của quá trình vận hành chứ không phải là giấy tờ để hoàn thiện báo cáo.
Thứ ba, xác lập tầm nhìn và đích đến về chất lượng. Từ đó lựa chọn hoặc xây dựng bộ tiêu chí phù hợp với chiến lược của nhà trường.
“Có đích đến thì mới có tiêu chí đo lường, và có đối sánh thì mới nhìn thấy khoảng cách để cải tiến. Cơ sở giáo dục đại học cần thực hiện đối sánh theo các bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục và các bộ chuẩn gắn sao/xếp hạng để định vị vị trí trong hệ sinh thái giáo dục”, Tiến sĩ Trần Ái Cầm chia sẻ.
Cũng theo cô Cầm, xu hướng hiện nay trên thế giới là kết hợp kiểm định chất lượng giáo dục và xếp hạng theo đối sánh định mức, không chỉ có QS Stars (sản phẩm đánh giá chất lượng giáo dục của một trường đại học và gắn sao), UPM mà Bảng xếp hạng THE Impact Rankings cũng bắt đầu chuyển sang Rating (đánh giá) – là cách tiếp cận đối sánh gắn sao. Đây là công cụ quản trị rất hiệu quả, giúp các trường tối ưu nguồn lực, xác định ưu tiên cải tiến và nâng cao uy tín.
“Tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục sẽ trở nên “nặng nề” nếu vận hành thiếu hệ thống. Do đó, khi chất lượng đã được tích hợp vào quản trị, đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, thì tự đánh giá đơn thuần sẽ là bước tổng hợp, phân tích và kể câu chuyện về chất lượng”, Tiến sĩ Trần Ái Cầm chia sẻ.