Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 05/2024/TT-BLĐTBXH quy định chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo giáo dục nghề nghiệp, thay thế Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 21/2020/TT-BLĐTBXH (bãi bỏ Điều 4 Thông tư số 34/2018/TT-BLĐTBXH) với nhiều điểm đáng chú ý. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/06/2024.
Đơn giản hóa tiêu chí, quy trình và xếp hạng đánh giá
Trước hết, có thể thấy, Thông tư số 05/2024 đã đơn giản hóa các tiêu chí đánh giá so với Thông tư cũ.
Đơn cử, Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH đã quy định 36 - 44 chỉ số đánh giá khác nhau cho nhà giáo ở các trình độ. Tuy nhiên, Thông tư 05/2024 đã đơn giản hóa các tiêu chí này thành 5 nhóm tiêu chí chính, áp dụng cho cả ba cấp trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng gồm: Tiêu chí về trình độ đào tạo; Tiêu chí về trình độ nghiệp vụ sư phạm; Tiêu chí về năng lực sử dụng ngoại ngữ; Tiêu chí về năng lực ứng dụng công nghệ thông tin; Tiêu chí về học tập và bồi dưỡng nâng cao.
Bên cạnh đó, quy trình đánh giá và xếp loại cũng được đơn giản hóa hơn so với thông tư cũ. Cụ thể, theo Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH, nhà giáo giáo dục nghề nghiệp được đánh giá trên thang điểm 100 và xếp loại thành ba hạng A, B, C.
Thế nhưng Thông tư 05/2024 đã loại bỏ cách đánh giá này, thay vào đó, nhà giáo chỉ cần đạt hoặc không đạt theo 5 tiêu chí đã đề ra, không còn phân loại thành các hạng. Nhà giáo là viên chức công lập sẽ được đánh giá theo quy định của Luật Viên chức.
Thông tư 05/2024 đã trao nhiều quyền tự chủ và trách nhiệm hơn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong việc quản lý chuyên môn.
Cụ thể, Điều 23 của Thông tư này nêu rõ, trách nhiệm của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên của Thông tư này nêu rõ là được "Xác định sự phù hợp về trình độ chuyên môn được đào tạo và trình độ kỹ năng nghề của nhà giáo với ngành, nghề được phân công giảng dạy. Bố trí giảng dạy cho nhà giáo đạt chuẩn theo yêu cầu vị trí việc làm, có văn bằng về trình độ chuyên môn và chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy thực hành phù hợp với ngành, nghề được phân công giảng dạy”.
Nhà giáo giáo dục nghề nghiệp cần có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận nào để dạy thực hành nghề?
Đặc biệt, một trong những điểm nổi bật của Thông tư 05/2024 là việc làm rõ quy định về chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy thực hành theo hướng cụ thể hơn phạm vi công nhận văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đạt chuẩn kỹ năng nghề để dạy thực hành.
Về văn bằng chuyên sâu và đặc thù, nhà giáo được xem là đạt chuẩn kỹ năng nghề để dạy thực hành khi có Bằng Kỹ sư, Bằng bác sĩ chuyên khoa cấp I, cấp II, Bằng cử nhân hoặc tương đương đối với các ngành Nghệ thuật, Thể dục, Thể thao, Công nghệ thông tin, Kế toán, Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống, Đào tạo giáo viên, Ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài.
Về chứng chỉ kỹ năng nghề, nhà giáo cần đạt Danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, Nghệ sĩ ưu tú, Thầy thuốc ưu tú, Nhà giáo ưu tú, Chứng chỉ hành nghề, giấy phép hành nghề, chứng chỉ kỹ năng nghề xuất sắc tại các kỳ thi quốc gia, giải thưởng quốc gia, khu vực, quốc tế, chứng nhận huấn luyện học sinh đoạt giải thưởng trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
Về văn bằng và chứng chỉ khác, cần có Giấy chứng nhận khả năng chuyên môn của thuyền viên theo Công ước STCW, Bằng tốt nghiệp trung cấp ngành xiếc và tạp kỹ, Giấy phép lái xe hạng B2 trở lên đối với giáo viên dạy thực hành lái xe.
Về văn bằng và chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp nước ngoài, nhà giáo được xem là đạt chuẩn kỹ năng nghề để dạy thực hành khi có Chứng chỉ kỹ năng nghề bậc 4 của Đức, Chứng chỉ kỹ năng nghề cao đẳng của Úc, Chứng chỉ kỹ năng nghề bậc 3 trở lên của Malaysia.