Câu lạc bộ các trường đại học địa phương (Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) dự kiến sẽ tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Chính quyền địa phương ở Việt Nam và sự phát triển của các trường đại học, cao đẳng trực thuộc” vào ngày 10/5/2024 tại Trường Đại học Hạ Long.
Hội thảo là cơ hội để nhìn nhận thực trạng từ đó có kiến nghị đề xuất phù hợp
Đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của việc tổ chức Hội thảo khoa học “Chính quyền địa phương ở Việt Nam và sự phát triển của các trường đại học, cao đẳng trực thuộc”, Tiến sĩ Lê Anh Đức - Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Nai khẳng định:
"Hội thảo là dịp để các trường đại học địa phương đánh giá lại những đóng góp trong đào tạo nhân lực ở cấp độ địa phương và vùng. Qua đó xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để có định hướng phát triển. Đồng thời chính quyền địa phương cũng thấy được vai trò, tầm quan trọng khi duy trì và phát triển các trường đại học trực thuộc, có giải pháp phù hợp nhằm khai thác có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc làm và nhân lực cho các ngành kinh tế.
Hơn nữa, hội thảo cũng là dịp để các cơ quan trung ương có thông tin đa chiều để hỗ trợ các trường đại học, cao đẳng địa phương phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu và khó khăn để phát triển đúng hướng".
Còn theo đánh giá của Tiến sĩ Hà Đình Hùng - Trưởng Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa cho rằng: “Hội thảo này sẽ là diễn đàn lý luận, cung cấp luận cứ khoa học có ý nghĩa để bổ sung và làm sáng tỏ thêm về quản trị, điều hành đối với mô hình các trường đại học, cao đẳng do địa phương quản lý, đặc biệt trong bối cảnh thực thi Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (2018), Nghị định 99 về hướng dẫn chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (2019) và Nghị định 60 về quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập. Từ đó, giúp chính quyền địa phương nhận định rõ những khó khăn, thách thức, vướng mắc về cơ chế, thể chế và yêu cầu trong hoạt động quản trị đại học ở bối cảnh hiện nay.
Thông qua nội dung luận bàn tại hội thảo, giúp cán bộ lãnh đạo, quản trị trường đại học được chia sẻ, thấy được bức tranh toàn cảnh hiện nay trong công tác quản lý, vận hành, những thách thức và giải pháp mà mỗi trường đại học, cao đẳng địa phương trực thuộc tỉnh đang phải đối mặt. Qua đó, đề ra những kiến nghị phù hợp góp phần đưa loại hình trường đại học, cao đẳng địa phương phát triển bền vững”.
Cũng theo thầy Hùng, một trong những nội dung quan trọng của hội thảo lần này là các trường đại học, cao đẳng địa phương tham gia phản biện cơ chế chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương. Điều này đã tạo ra nhiều cơ hội cho các cơ sở giáo dục địa phương được nói lên tiếng nói của mình.
“Bản chất ra đời, tồn tại và phát triển của các trường đại học, cao đẳng địa phương là gắn liền với nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực các lĩnh vực cần thiết của địa phương mà trường đại học, cao đẳng đó có thế mạnh hoạt động chuyên môn. Đó vừa là nhiệm vụ chính trị nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ chuyên môn. Đây là điều khác biệt với sứ mạng hoạt động của các trường đại học, cao đẳng không thuộc mô hình địa phương quản lý.
Do đó, việc các trường đại học, cao đẳng địa phương tham gia phản biện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương là tất yếu khách quan. Bởi vì, chỉ khi được tham gia vào cơ chế chính sách phản biện thì trường đại học, cao đẳng địa phương mới định vị đúng nhiệm vụ của mình. Mặt khác thông qua đó cơ quan chủ quản (chính quyền địa phương) mới thực hiện được cơ chế quản trị, quản lý các nhà trường này bám sát vào chương trình, chiến lược phát triển của địa phương mình.
Thông qua việc phản biện cơ chế chính sách, chiến lược phát triển và các kế hoạch trung hạn, dài hạn của mỗi trường bám sát theo chương trình, chiến lược phát triển của tỉnh, từ đó được đóng góp “tiếng nói” vào sự tiến bộ chung của địa phương. Vị thế của trường được nâng cao và có khả năng để tranh thủ các nguồn lực bên trong, bên ngoài giúp cho trường đại học, cao đẳng phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay”, Trưởng Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa nhấn mạnh.
Cùng bàn về vấn đề này, Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Nai bày tỏ: "Chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương thường gắn liền với sự phát triển của các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn. Là người cùng sống, làm việc ở địa phương nên hơn ai hết, viên chức - giảng viên, các nhà khoa học hiểu được thực trạng kinh tế - xã hội, hiểu được nhu cầu và những đòi hỏi của các doanh nghiệp (bao gồm các trường học, cơ sở sản xuất). Từ đó có những góp ý kiến, phản biện xã hội về cơ chế, chính sách của địa phương. Các trường đại học, cao đẳng có dịp thể hiện năng lực nghiên cứu dự báo, ứng dụng tri thức mới để đào tạo nhân lực tại địa phương phù hợp với thị trường lao động. Mặt khác viên chức - giảng viên của các trường có cơ hội phát triển cả về số lượng và chuyên môn cao hơn".
Củng cố mạng lưới trường đại học, cao đẳng trực thuộc chính quyền địa phương trong phân tầng giáo dục đại học bền vững
Dự kiến trong buổi hội thảo sắp tới, Trường Đại học Đồng Nai có bài tham luận với đề tài "Củng cố mạng lưới trường đại học, cao đẳng trực thuộc chính quyền địa phương trong phân tầng giáo dục đại học bền vững, đề xuất từ Trường Đại học Đồng Nai".
Theo đó, tham luận nhấn mạnh việc nhận diện những điểm mạnh, điểm yếu cơ bản ở các trường đại học địa phương (với 27 trường) là vấn đề quan trọng. Từ đó xác định nhiệm vụ nội tại của nhà trường, đồng thời có những kiến nghị những chính sách phù hợp, kịp thời của Nhà nước, nhất là từ Bộ Giáo dục và Đào tạo và chính quyền các địa phương nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc.
Đối với các trường đại học địa phương, nhiệm vụ trước mắt là khắc phục những điểm yếu từ nội tại của đơn vị; khắc phục những hạn chế đã được chỉ rõ tại Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”.
Các cơ sở giáo dục địa phương cần kết nối tri thức số, chia sẻ tài nguyên giáo dục thông qua kết nối Thư viện số vào Trung tâm Trí thức số (Thư viện số dùng chung các trường đại học, cao đẳng Việt Nam).
Xây dựng phần mềm dùng chung (có thể sử dụng khung sản phẩm từ Học viện Bưu chính Viễn thông hoặc Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành) làm mô hình chuyển đổi số cho tất cả các đơn vị trong hệ thống giáo dục và đào tạo để giảm chi phí và tăng tính kết nối với Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Xây dựng lộ trình tự chủ theo chủ trương chung của Nhà nước.
Đồng thời, Trường Đại học Đồng Nai cũng có những kiến nghị đối với Nhà nước:
Ưu tiên cấp đất, đầu tư nhà xưởng, thiết bị đáp ứng nhu cầu học của sinh viên theo hướng ứng dụng, thực hành; Hỗ trợ nhà ở xã hội và chế độ đãi ngộ với đội ngũ viên chức, giảng viên, người lao động để họ phấn đấu học lên cao hơn, yên tâm công tác trong ngành giáo dục và đào tạo.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Qua đó, cho phép các trường đại học địa phương cùng tham gia đào tạo nhân lực trình độ trung cấp, cao đẳng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, khai thác năng lực đội ngũ viên chức, giảng viên, người lao động hiện có, có điều kiện về thời gian để chuẩn bị nâng cao trình độ của viên chức, giảng viên, người lao động cho phát triển bền vững.
Cần thúc đẩy quá trình thực hiện chuyển đổi số ở các cơ sở giáo dục địa phương
Còn Tiến sĩ Hà Đình Hùng sẽ có bài tham luận về “Vai trò của đơn vị quản lý trực tiếp đến quá trình thực hiện chuyển đổi số ở trường địa phương hiện nay”.
Theo Tiến sĩ Hà Đình Hùng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang len lỏi vào hầu khắp các lĩnh vực của đời sống con người và xã hội. Trường đại học với sứ mạng là nơi sáng tạo tri thức mới cho xã hội lại càng không thể chối bỏ và đứng ngoài tiến trình lịch sử này.
“Trên bình diện các trường đại học địa phương, vốn dĩ còn khó khăn, thiếu thốn trăm bề thì chuyển đổi số hiện nay vẫn còn khá dè dặt. Sự đầu tư các nguồn lực để thực hiện chuyển đổi số như thế nào cho phù hợp với khả năng và mức độ của mỗi trường là bài toán nan giải. Trong khi những vấn đề quan trọng khác chẳng hạn như duy trì kiểm định chất lượng, thúc đẩy tuyển sinh, chi trả chế độ chính sách và phát triển đội ngũ… đang chiếm trọn tâm trí của hầu hết các cán bộ quản lý nhà trường.
Vậy nên, nếu không có sự quan tâm, hỗ trợ và thậm chí đầu tư từ cơ quan quản lý trực tiếp, chắc chắn quá trình chuyển đổi số của các trường đại học địa phương là không triệt để; không đủ nguồn lực thực tế để tổ chức thực hiện”, thầy Hùng nêu quan điểm.
Cũng theo thầy Hùng, để chuyển đổi số thành công, các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động xây dựng chiến lược, lộ trình, phương thức thực hiện. Tuy nhiên, chỉ sự nỗ lực của các cơ sở giáo dục đại học là chưa đủ.
“Trước tiên và cũng là giải pháp căn cơ nhất vẫn là cần khắc phục, tháo gỡ những rào cản từ phía bản thân cơ sở giáo dục đại học. Là đầu mối trực tiếp thực hiện hoạt động chuyển đổi số, các cơ sở giáo dục đại học phải có giải pháp giải quyết từng vấn đề vướng mắc đang gặp phải. Các trường đại học phải nhanh chóng xây dựng hạ tầng công nghệ, trang thiết bị cần thiết cho cả người học, người dạy và người tham gia quản lý.
Không chỉ là các thiết bị phần cứng như hệ thống máy móc, đường truyền internet mà còn là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng để toàn bộ mọi hoạt động giáo dục có thể diễn ra một cách thuận lợi trên các nền tảng và ứng dụng đó. Để làm được điều này, các cơ sở giáo dục đại học phải chủ động kết nối các chương trình, phần mềm riêng lẻ lại với nhau để tạo thành một nền tảng thống nhất, cho phép hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, kiểm tra, thi cử, đánh giá, quản lý người học diễn ra thuận lợi.
Các cơ sở giáo dục đại học cần đẩy mạnh phát triển học liệu điện tử để đảm bảo người học được tiếp cận đầy đủ nguồn học liệu khi đào tạo trực tuyến. Nguồn học liệu mở là hướng đi đúng đắn cho nhiều trường đại học, tạo cơ sở vững chắc để triển khai đào tạo trực tuyến. Khi xây dựng được nguồn học liệu mở thì dù ở đâu, thời gian nào, việc học tập cũng không bị gián đoạn.
Đi cùng với học trực tuyến, các cơ sở giáo dục đại học phải đưa ra cách thức kiểm tra, đánh giá người học bằng hình thức trực tuyến. Đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi số. Đây là đội ngũ trực tiếp giảng dạy, do đó các cơ sở giáo dục đại học phải tổ chức các khóa bồi dưỡng, khuyến khích, tạo động lực cho giảng viên học hỏi, tích lũy kỹ năng sử dụng công nghệ. Giảng viên cần phải hình dung được mình sẽ nhìn thấy sinh viên của mình học tập như thế nào nếu không trực tiếp gặp mặt và họ có thể nắm bắt, đánh giá được những gì từ phía người học. Giảng viên cũng cần trang bị cho mình những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động giảng dạy, duy trì sự chú tâm của người học, tổ chức các hoạt động dạy học cho người học trên không gian ảo sao cho hiệu quả
Để vận hành một hệ thống tích hợp phần cứng, phần mềm, quản lý người học trên không gian ảo, lãnh đạo nhà trường, nhất là người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học phải đổi mới tư duy, nâng cao năng lực quản lý theo hướng thích nghi và làm chủ được quá trình chuyển đổi số. Lãnh đạo cần tranh thủ thời cơ, nắm bắt cơ hội khi thực hiện chuyển đổi số, trang bị thêm kiến thức về chuyển đổi số để triển khai thực hiện trong chính cơ sở của mình.
Các cơ sở giáo dục đại học cũng cần cơ cấu lại đội ngũ nhân sự sao cho phù hợp với mục tiêu chuyển đổi số. Giảm bớt các vị trí việc làm hành chính, tăng cường đội ngũ kỹ thuật viên phục vụ đào tạo trực tuyến", thầy Hùng bày tỏ.
Thứ hai, theo thầy Hùng cần tháo gỡ rào cản từ phía Nhà nước. Hành lang pháp lý về chuyển đổi số trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là điều cấp thiết nhất Nhà nước cần nghiên cứu ban hành, tạo cơ sở cho hoạt động chuyển đổi số diễn ra thuận lợi. Hệ lụy của việc không có khung pháp lý hoặc khung pháp lý không đầy đủ là rất lớn, mỗi trường sẽ thực hiện theo mỗi phương thức khác nhau, không theo một khuôn khổ nào từ tuyển sinh, tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá cho đến cấp văn bằng, chứng chỉ.
Do đó, Trưởng Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đề xuất trong thời gian tới, Bộ Giáo dục đào tạo phải nhanh chóng nghiên cứu, ban hành, đưa phương thức đào tạo trực tuyến vào quy chế đào tạo đại học sửa đổi; ban hành quy chế bảo đảm chất lượng các chương trình đào tạo từ xa và xây dựng đề án phát triển đào tạo từ xa. Các quy định về giảng dạy, tiêu chuẩn khung của giảng viên giảng dạy trực tuyến, kiểm tra, đánh giá người học trực tuyến cần được đưa vào các văn bản pháp lý để điều chỉnh, yêu cầu các trường đại học phải nghiêm túc tuân thủ.
Ngoài hệ thống pháp lý, Nhà nước cần tiếp tục nỗ lực xây dựng nền tảng công nghệ quốc gia thống nhất để từng tập thể, cá nhân, giảng viên, sinh viên có thể tham gia và hoạt động chuyển đổi số. Trên nền tảng công nghệ đó, ngành giáo dục phải nhanh chóng dành nguồn kinh phí, nhân lực để tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ học trực tuyến. Nhà nước nên hỗ trợ nhân lực và tài lực để các cơ sở giáo dục đại học xây dựng kho tài nguyên học tập số để tối ưu hóa hoạt động đào tạo trực tuyến.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học triển khai chuyển đổi số, Bộ Giáo dục và đào tạo cần đẩy mạnh phát triển hệ thống dữ liệu toàn quốc về giáo dục đào tạo, phát triển hệ thống học liệu và môi trường học tập số; phối kết hợp với các trường đại học xây dựng và triển khai khung năng lực số đối với người học.
Đặc biệt, sứ mệnh quan trọng của Nhà nước là giúp các cơ sở giáo dục đại học giải quyết vấn đề an toàn thông tin trong bối cảnh hiện nay. Đây là vấn đề quốc gia chứ không đơn thuần của riêng trường đại học. Hệ thống dữ liệu, các nền tảng công nghệ phục vụ hoạt động đào tạo trực tuyến nếu được thiết lập bởi hệ điều hành máy chủ cũ kỹ, chậm được nâng cấp thường chứa nhiều lỗ hổng cho tội phạm xâm nhập, tấn công. Do đó, Nhà nước cần có giải pháp nâng cấp, phát triển công nghệ để ngăn chặn sự tấn công mạng. Nhà nước cũng phải xây dựng được các hệ thống bảo mật, phần mềm, trung tâm an toàn thông tin, khuyến khích các trường đại học tuân thủ các quy định về an ninh mạng. Yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến Luật An ninh mạng, hướng dẫn người học khai báo, tìm đến cơ quan chức năng khi phát hiện vi phạm để kịp thời xử lý.
Quan trọng hơn, Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp lý chặt chẽ và nghiêm minh hơn để đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin khi chuyển đổi số hoạt động giáo dục đại học.
Thứ ba, tháo gỡ rào cản từ phía người học. Sự sẵn sàng tiếp nhận từ phía người học quyết định ý nghĩa cũng như hiệu quả của quá trình chuyển đổi số hoạt động giáo dục đại học. Vốn đã quen với mô hình học tập truyền thống, người học cần thời gian để thích nghi. Thế nhưng khoảng thời gian để người học thích nghi này nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, không chỉ từ phía bản thân người học. Các cơ sở giáo dục đại học phải đẩy nhanh tiến độ hình thành các quy định bắt buộc người học phải tuân thủ khi tham gia đào tạo trực tuyến. Không chỉ việc học mà còn là các quy định về đăng ký môn học, đánh giá, kiểm tra, thi cử của người học cũng cần được quy định rõ ràng, dễ hiểu và phổ biến đến tất cả người học.
Các trường đại học cũng cần bắt tay vào xây dựng văn hóa giáo dục số gồm những vấn đề về thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức học tập của người học. Phải làm cho người học ý thức được trách nhiệm của mình trong đào tạo trực tuyến.
Để giúp người học thành thạo trong học trực tuyến, các trường đại học nên tổ chức các khóa tập huấn tập trung về phương pháp truy cập, tham gia học tập, tìm kiếm tài liệu trên không gian ảo. Các buổi tập huấn này sẽ bổ trợ hữu ích cho người học trong thời gian đầu tham gia đào tạo trực tuyến.
Để giải quyết câu chuyện bình đẳng trong giáo dục khi thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học, cần có sự kết hợp giữa ba chủ thể bao gồm các trường đại học, Nhà nước và xã hội. Bởi đây không phải là vấn đề mà một chủ thể riêng biệt có thể giải quyết được. Giáo dục không tồn tại độc lập mà nó tồn tại bên cạnh các lĩnh vực khác trong xã hội. Chuyển đổi số liên quan chặt chẽ đến hạ tầng viễn thông quốc gia và địa phương, do đó giáo dục trong đó có giáo dục đại học cần phối hợp với các ngành, địa phương, hỗ trợ thực hiện mục tiêu chuyển đổi số.
Ngoài ra, theo thầy Hùng, trước mắt, Nhà nước cần có giải pháp hỗ trợ về tài chính để những sinh viên ở những vùng khó khăn như nông thôn, miền núi và ngay cả sinh viên nghèo ở đô thị có điều kiện tiếp cận với công nghệ số, hòa nhập và bắt kịp vào quá trình đào tạo trực tuyến. Ngoài ra, để đào tạo trực tuyến có thể phát triển bền vững, các cơ sở giáo dục đại học, Nhà nước và xã hội cần đẩy mạnh nghiên cứu cả về lý luận và nghiên cứu ứng dụng về đào tạo trực tuyến, tạo cơ sở khoa học để giảng viên, các nhà quản lý và người học có những bước đi đúng đắn, phù hợp để thích nghi và đưa đào tạo trực tuyến trở nên phổ biến và hiệu quả.