Mặc dù các hoạt động đảm bảo chất lượng trong thời gian vừa qua đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận, nhưng theo Giáo sư Đặng Ứng Vận – Trường Đại học Hòa Bình nhận định thì Việt Nam chưa có một hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng đủ mạnh để làm tròn vai trò chất xúc tác quan trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
6 nguyên nhân khiến phong trào đảm bảo chất lượng của Việt Nam chững lại
Giáo sư Đặng Ứng Vận chỉ ra, theo nhận định của các tổ chức quốc tế, hiện nay phong trào đảm bảo chất lượng của Việt Nam đang bị vướng ở một số vấn đề khiến sự phát triển có thể bị chững lại, ví như:
Một là, hệ thống đảm bảo chất lượng ở cấp quốc gia chưa hoàn chỉnh. Hội đồng quốc gia kiểm định chất lượng giáo dục vẫn chưa được thành lập;
Hai là, việc thực hiện đảm bảo chất lượng bên trong còn mang tính đối phó với yêu cầu của bên ngoài chứ chưa phải là một nhu cầu tự thân với mục đích tự cải thiện chất lượng các sản phẩm đào tạo mà nhà trường cung cấp cho xã hội.
Ba là, cơ chế đảm bảo chất lượng hiện nay chưa tạo được sự độc lập giữa 3 hoạt động: tự đánh giá (do các trường thực hiện), đánh giá ngoài (do một cơ quan độc lập bên ngoài nhà trường thực hiện), và công nhận kết quả (do cơ quan quản lý nhà nước trong giáo dục đại học hoặc một cơ quan được ủy quyền thực hiện);
Bốn là, nhân sự hoạt động trong toàn hệ thống đảm bảo chất lượng quốc gia tuy đã được tăng cường nhưng còn hạn chế về năng lực;
Năm là, hệ thống thông tin phục vụ quá trình đánh giá còn thiếu, tính minh bạch của thông tin còn thấp.
Sáu là, phải thẳng thắn mà nhận định rằng trong khâu lập pháp có những sơ hở nên đặt hệ thống vào tình huống bị động lúng túng trong triển khai. Rõ nhất là việc đưa vào Luật khái niệm “các tổ chức kiểm định chất lượng phải độc lập về tổ chức đối với các cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục” trong khi đó khái niệm độc lập cần được hiểu là “khả năng của cơ quan để thực hiện các chức năng của mình một cách đầy đủ và chất lượng mà không bị ảnh hưởng từ bên ngoài”.
Nếu các tổ chức kiểm định chất lượng phải độc lập về tổ chức đối với các cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục thì ai sẽ am hiểu về giáo dục đại học để đứng ra thành lập và quản lý các tổ chức này?
Những vấn đề đặt ra khi triển khai công tác kiểm định chất lượng
Từ thực tế này, Giáo sư Đặng Ứng Vận nêu những vấn đề đặt ra khi triển khai công tác kiểm định chất lượng.
Về chương trình đào tạo: Việc thường xuyên rà soát, cập nhật chương trình đào tạo sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là lấy ý kiến đánh giá từ người sử dụng lao động. Bởi vì không phải hôm nay điều chỉnh chương trình đào tạo thì ngày mai đã có kết quả. Giáo dục (ngay cả giáo dục đại học) cũng có tính trễ của nó.
Vậy 2 năm có đủ để một lứa sinh viên ra trường và chứng minh được rằng những điều chỉnh chương trình đào tạo của nhà trường là hợp lý. Vì vậy, trong đảm bảo chất lượng giáo dục, việc có được một chương trình đào tạo phù hợp, phản ánh đúng và đáp ứng đúng yêu cầu từ thị trường lao động là một thách thức. Việc thay đổi “xoành xoạch” để đáp ứng bộ tiêu chí chất lượng nữa lại còn thách thức lớn hơn. Nếu không sẽ chỉ mang tính hình thức.
Giáo sư Đặng Ứng Vận (ảnh: Thùy Linh) |
Về đảm bảo điều kiện cho người dạy và người học: Trong quá trình thực hiện kiểm định chương trình đào tạo cho thấy để đảm bảo chất lượng giáo dục thì cơ sở giáo dục phải có một khung chương trình phù hợp, có quá trình tổ chức đào tạo phù hợp. Khung chương trình phải được thể hiện chi tiết trong từng học phần, và quá trình tổ chức đào tạo phải chi tiết hóa đến từng đề cương của các học phần ấy.
Để đảm bảo được yêu cầu như vậy thì khối lượng công việc của giảng viên tăng lên nhiều, trong khi tổng thù lao tính trên một đơn vị tín chỉ thì không thay đổi. Vì vậy, rất khó để có sự hài hòa về lợi ích cho các thầy cô.
Bên cạnh đó việc học của sinh viên cũng tăng lên; vì vậy điều kiện về thư viện, cơ sở dữ liệu điện tử… cũng phải được đáp ứng đầy đủ. Với sự phát triển về công nghệ hiện nay thì không khó để đáp ứng các nhu cầu dạy và học, nhưng bài toán chi phí sẽ gây khó khăn cho các trường đại học.
Do đó, thu nhập của giảng viên, điều kiện giảng dạy và nghiên cứu của giảng viên, điều kiện học tập và nghiên cứu của sinh viên và vấn đề luôn đi cùng là mức học phí sẽ luôn là một khó khăn cho các trường đại học trong các hoạt động đảm bảo chất lượng theo quan điểm của bộ tiêu chuẩn 111 tiêu chí.
Về sự ủng hộ trên thực tế của lãnh đạo các trường đại học: Trên các diễn đàn, trong chiến lược phát triển… lãnh đạo các trường đại học đều thể hiện nhận thức sâu sắc và sự quyết tâm trong công tác đảm bảo, kiểm chất lượng giáo dục và xếp hạng đại học; đặc biệt là công tác đảm bảo chất lượng bên trong. Nhưng khi đi vào thực tế thì không hẳn các lãnh đạo đều thực hiện như tuyên bố.
Điều này cũng cần được thông cảm vì khi đi vào thực tiễn, công tác đảm bảo chất lượng sẽ đụng chạm nhiều vấn đề, trong đó phải thừa nhận rằng cân đối tài chính trong giai đoạn hiện nay là rất khó khăn.
Những đòi hỏi của các tiêu chí đảm bảo chất lượng buộc các cán bộ giảng viên trong trường phải làm việc gấp rưỡi, nếu không nói là gấp đôi không chỉ trong giai đoạn đánh giá mà trong suốt quá trình dạy học, trong suốt quá trình thực hiện PDCA (plan-do-check-act).
Nhưng không phải Hiệu trưởng và Hội đồng trường nào cũng sẵn sàng chi thêm kinh phí cho các hoạt động đảm bảo chất lượng này. Có chăng là chi phí đánh giá ngoài và kiểm định chất lượng là những thứ chi phí bắt buộc.
Với các trường công (chưa tự chủ tài chính) thì còn khó hơn vì Nhà nước chưa định chế các khoản chi cho việc xây dựng và vận hành hệ thống IQA trong nhà trường.
Về bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục, đây là thước đo để đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục và các chương trình đào tạo là mục tiêu để các Trường đại học phấn đấu nhưng bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục chưa được ổn định, chưa phù hợp với tất cả các đối tượng, một phần do chúng ta mới vận hành hệ thống cũng như triển khai các mặt công tác kiểm định và đảm bảo chất lượng, một phần do cơ chế quản lý.
Bộ tiêu chí kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục với 10 tiêu chuẩn và 50 tiêu chí sử dụng một thời gian chưa kịp tổng kết, rút kinh nghiệm thì đã phải thay bằng bộ tiêu chuẩn mới với 25 tiêu chuẩn và 111 tiêu chí (khá cồng kềnh và trùng lặp).
Trong bối cảnh khi chuyển ngữ từ bản tiếng Anh của ANU-QN sang bản tiếng Việt và được Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) bổ sung các mốc chuẩn tối thiểu thì cả những người đi kiểm định, những người chịu kiểm định và những người trong các Hội đồng Kiểm định chất lượng của các Trung tâm đều không hiểu một cách nhất quán các nội dung của Bộ tiêu chuẩn này. Những khái niệm phi truyền thống như: hiệu quả và chỉ báo hiệu quả tài chính, hiệu quả và chỉ báo hiệu quả thị trường của các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng là hoàn toàn mới đối với cán bộ giảng viên các trường đại học.
Bộ tiêu chuẩn mới đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục theo công văn số 767/QLCL-KĐCLGD ban hành ngày 20/4/2017 có số lượng tiêu chuẩn, tiêu chí nhiều hơn so với bộ tiêu chuẩn cũ (25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí) vì vậy Nhà trường cần có thời gian để thiết kế và vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và làm quen với ngôn ngữ kiểm định mới.
Thực tiễn đánh giá ngoài các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo cho thấy rất cần sử dụng một Bộ tiêu chuẩn khác cho cả cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo. Cần kết hợp cả đánh giá quá trình theo triết lý PDCA và đánh giá kết quả trong 2 Bộ tiêu chí này.
Thêm nữa, triết lý giáo dục của từng ngành học cụ thể có khác biệt so với triết lý giáo dục chung (ở tầm vĩ mô) của một dân tộc, một quốc gia. Điều đó ảnh hưởng đến việc thiết kế và vận hành chương trình đào tạo và kế đó đòi hỏi có một Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng phù hợp cho dù những nguyên tắc cơ bản là không thay đổi theo những ngành nghề cụ thể.
Về việc triển khai công tác kiểm định và đảm bảo chất lượng ở các cơ sở giáo dục: Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục và các đơn vị có liên quan trong thời gian qua đã tích cực triển khai tuyên truyền và phổ biến nhưng do đây là lĩnh vực mới mà xã hội chưa thực sự quan tâm, do chưa thấu hiểu nên trên các phương tiện tuyền thông có những ý kiến không thuận. Điển hình là phát ngôn “trường nào đánh giá cũng đạt vậy cần gì phải đánh giá”.
Vậy giải pháp đặt ra là gì?
Để khắc phục những vấn đề nêu trên, Giáo sư Đặng Ứng Vận cho rằng, về nhận thức thì cần kiểm định chất lượng giáo dục chỉ là khâu cuối cùng trong quy trình đảm bảo chất lượng bao gồm xây dựng và phát triển mô hình đảm bảo chất lượng bên trong, tự đánh giá, đánh giá ngoài và kiểm định chất lượng.
Tiêu chuẩn là công khai, không phải là những câu hỏi đánh đố, vậy nên các cơ sở giáo dục chỉ có thể đăng ký kiểm định khi đã tự đánh giá đạt tiêu chuẩn. Vấn đề đối với Đoàn đánh giá ngoài chỉ là mức độ đạt được của mỗi tiêu chí, tiêu chuẩn mà thôi. Vậy nên rất cá biệt mới có cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo không đạt chuẩn khi đánh giá ngoài do nhà trường đã tiến hành khâu Tự đánh giá không tốt.
Về tổ chức hệ thống, cần sớm thành lập một Hội đồng kiểm định chất lượng quốc gia (độc lập và trực thuộc Quốc hội hoặc Thủ tướng nếu được) cho Bộ tiêu chuẩn 111 tiêu chí. Tách việc đánh giá ngoài (do các trung tâm kiểm định phụ trách) khỏi cơ quan kiểm định cuối cùng (độc lập) có 2 lợi thế: đảm bảo tính minh bạch và tính nhất quán khi các trường dùng chung một thang đo chất lượng (Bộ tiêu chuẩn kiểm định) và đảm bảo tính độc lập của người phán xử, người ra quyết định, đáp ứng yêu cầu của Luật giáo dục đại học.
Đồng thời Quốc hội cần sớm có văn bản giải thích Luật về tính độc lập của các trung tâm kiểm định chất lượng theo hướng thực hiện các chức năng của mình một cách đầy đủ và chất lượng mà không bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Độc lập là ý thức và trách nhiệm của các đơn vị kiểm định chất lượng. Bộ Giáo dục và Đào tạo thay vì giải thể cần hướng dẫn việc thực hiện trách nhiệm độc lập của các đơn vị này. Ví dụ không chỉ quy định đơn vị kiểm định chất lượng không được tổ chức kiểm định chất lượng cho chính cơ sở giáo dục thành lập nó mà còn quy định tỷ lệ thành viên các Đoàn đánh giá ngoài thuộc đơn vị thành lập không vượt quá, ví dụ, 1/3.
Và khuyến khích những đề xuất khác về Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng có thể sử dụng cho các loại hình trường khác nhau: trường nghiên cứu và trường ứng dụng, trường công và trường tư, chương trình đào tạo vthuộc lĩnh vực khác nhau như: văn hóa – nghệ thuật, Khoa học xã hội – nhân văn, Khoa học tự nhiên, Công nghệ, Khoa học sự sống….hoặc cho phép các trường đại học lựa chọn các Bộ tiêu chuẩn kiểm định khác nhau như hiện nay đã cho phép các trường lựa chọn cơ quan kiểm định nước ngoài khác nhau.
Về quản lý Nhà nước: Cục Quản lý chất lượng và Thanh tra Bộ cần thay đổi phương thức quản lý đối với công tác kiểm định chất lượng. Những việc nên làm là chuẩn hóa lại Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng với sự trợ giúp của các chuyên gia và các trung tâm kiểm định chất lượng. Rất nên lập một Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục quốc gia. Các trung tâm kiểm định chỉ nên tiến hành đánh giá ngoài. Việc thẩm định kết quả đánh giá ngoài và công nhận đạt chuẩn nên giao cho Hội đồng này.
Đề nghị tiến hành rà soát, đánh giá các Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng để có những cải tiến theo đúng nguyên tắc PDCA (plan-do-check-act) mà các Bộ tiêu chuẩn này đang theo đuổi.
Thực tiễn bảo đảm chất lượng ở các cơ sở giáo dục (giờ đã được tự chủ) phong phú và muôn dạng với những mô hình đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) đa dạng (no one size fits all) đòi hỏi công việc kiểm định chất lượng cũng phải có sự thích ứng nếu không sẽ hạn chế sức sáng tạo của các cơ sở giáo dục. Cần chấp nhận những phương án thay thế theo nguyên tắc hiệu quả và thích hợp.
Về chính sách đối với các trung tâm kiểm định: Cần khẳng định các Trung tâm Kiểm định phải là các tổ chức phi lợi nhuận. Việc để cho các trung tâm này hoạt động như một tổ chức vì lợi nhuận sẽ dẫn đến những hậu quả không lường trước được.
Giải pháp thiết kế các trung tâm kiểm định chất lượng đáp ứng yêu cầu độc lập về tổ chức của Luật Giáo dục đại học là: lập Hội đồng kiểm định chất lượng quốc gia cho toàn hệ thống do Quốc hội, Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập.
Giữ nguyên trạng tổ chức của các trung tâm kiểm định chất lượng với chức năng hạn chế ở việc tiến hành đánh giá ngoài các trường đại học và chương trình đào tạo và trình Hội đồng kiểm định chất lượng quốc gia thẩm định, phê duyệt. Bổ sung, nhấn mạnh tính độc lập về ý thức và trách nhiệm trong việc tổ chức và giám sát hoạt động đánh giá ngoài của các Đoàn đánh giá ngoài.