Cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện PPP trong lĩnh vực giáo dục

08/01/2024 06:31
Kim Minh Châu
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Kể cả khi nhà đầu tư quan tâm đến các dự án PPP, thì cuối cùng vẫn chỉ dừng lại ở bước nghiên cứu tiền khả thi, khó đạt được thỏa thuận đầu tư.

Hợp tác theo phương thức đối tác công tư (Public private partnership - gọi tắt là PPP) được coi là một xu thế tất yếu, không chỉ nhằm bổ sung nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đại học trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, mà còn để hướng tới việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo; thúc đẩy quá trình đổi mới, sáng tạo và chuyển giao công nghệ; gắn kết các hoạt động nghiên cứu cùng với hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Từ đó, giúp cải thiện năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục, thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Khó đi đến thỏa thuận đầu tư

Trao đổi thông tin với phóng viên Tạp chí điện tử Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng - Trưởng ban Ban Tài chính, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2030 “Xây dựng khu đô thị đại học thông minh, xanh, bản sắc” và “Phát triển Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu châu Á” là một trong các nhóm chiến lược đột phá của giai đoạn 2021 – 2030 được ưu tiên tập trung triển khai thực hiện.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng - Trưởng ban Ban Tài chính, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ về PPP trong giáo dục đại học. Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng - Trưởng ban Ban Tài chính, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ về PPP trong giáo dục đại học. Ảnh: NVCC

Theo kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021 – 2025, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được giao nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho chi đầu tư phát triển khoảng 5.644 tỷ đồng (vốn trong nước khoảng 3.572 tỷ đồng; vốn nước ngoài khoảng 2.072 tỷ đồng).

Nguồn vốn trên được tập trung ưu tiên cho công tác bồi thường giải phóng mặt bằng; đầu tư xây dựng một số dự án cấp thiết như: Trung tâm nghiên cứu tiên tiến – Trung tâm đổi mới sáng tạo; Khoa Y – Trường Đại học Khoa học sức khỏe; các công trình nhà học tập, thí nghiệm, các phòng thí nghiệm, nghiên cứu,…

“Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở vật chất cho khu đô thị Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và tại các đơn vị nói riêng, bên cạnh việc sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước và sự chủ động của các đơn vị trong việc tìm kiếm, huy động các nguồn vốn vay, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vẫn cần phải huy động thêm các nguồn vốn khác mới có thể đảm bảo thực hiện được các mục tiêu chiến lược, kế hoạch đặt ra. Lúc này, việc phát triển hợp tác công tư trong lĩnh vực giáo dục đại học là vô cùng cần thiết” – Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng chia sẻ.

Triển khai thu hút đầu tư từ năm 2014, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng và ban hành danh mục dự án kêu gọi xã hội hoá đầu tư tại khu đô thị đại học, gồm 20 dự án đầu tư xây dựng các công trình dịch vụ, khoa học, công nghệ, nhà công vụ phục vụ cho sinh viên và giảng viên, với tổng vốn đầu tư dự kiến là 8.700 tỷ đồng.

Được sự đồng ý của Chính phủ trong chủ trương triển khai các dự án hợp tác công – tư, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các hoạt động để xúc tiến đầu tư và tìm kiếm nhà đầu tư. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có 01 dự án được thực hiện theo hình thức xây dựng - sở hữu - vận hành (BOO), với tổng vốn đầu tư khoảng 30 tỷ đồng.

Đến năm 2020, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung thêm 06 danh mục dự án đầu tư cơ sở vật chất, kêu gọi đầu tư tại khu đô thị và 09 dự án đầu tư nghiên cứu ứng dụng, với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 10.150 tỷ đồng.

Từ đó cho đến nay, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư và đã có một số dự án được nhà đầu tư quan tâm nghiên cứu tiền khả thi như: Dự án Xây dựng các tòa nhà của Khu Công nghệ Phần mềm; Dự án khu hồ cảnh quan; Dự án Bệnh viện Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Khu Trung tâm Thể dục thể thao; Dịch vụ công cộng trên các trục giao thông chính.

Tuy nhiên, sau nhiều lần làm việc, hầu hết các nhà đầu tư đều đánh giá không khả thi về vấn đề tài chính (vòng đời dự kiến thực hiện dự án dài hơn so với thời gian sử dụng của máy móc, thiết bị chuyên dụng…), nên doanh nghiệp thường có xu hướng kéo chậm tiến độ, không đặt ưu tiên đầu tư cho các dự án.

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng nhận định: “Thực tiễn trong việc hợp tác công tư phần nào cho thấy các danh mục kêu gọi đầu tư của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những điểm chưa phù hợp với nhà đầu tư hoặc thiếu thông tin mà nhà đầu tư cần. Từ đó, dẫn đến mối quan hệ cung – cầu giữa nhà đầu tư và cơ sở giáo dục đại học không được kết nối hiệu quả.

Hiện nay, ở nhiều cơ sở giáo dục đại học, số dự án kêu gọi đầu tư tuy nhiều nhưng số dự án được nhà đầu tư quan tâm vẫn còn ít. Kể cả khi các dự án đã được nhà đầu tư quan tâm, tìm hiểu thì cuối cùng vẫn chỉ dừng lại ở bước nghiên cứu tiền khả thi mà chưa đạt được thỏa thuận đầu tư”.

Vướng mắc do đâu?

Ở Việt Nam, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) chính thức có hiệu lực từ ngày 01/1/2021 được kỳ vọng sẽ là điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh thu hút nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước, cải thiện cơ sở vật chất và nâng cao hiệu quả đầu tư công, chất lượng dịch vụ công. Mặc dù vậy, hiện nay, việc triển khai Luật này trong lĩnh vực giáo dục vẫn chưa đạt được hiệu quả.

Nói về những vướng mắc của PPP trong giáo dục đại học, Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng cho biết có nhiều nguyên do.

Trước hết, chúng ta đang có cách nhìn chưa đầy đủ về bản chất và sự cần thiết phải thực hiện hợp tác đầu tư PPP trong giáo dục đại học.

Khái niệm về PPP trong lĩnh vực giáo dục theo quy định còn hẹp và còn nhiều vấn đề cần phải bàn thêm. Bởi theo thông lệ quốc tế, PPP là mô hình mà Nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của Nhà nước.

Như vậy, hợp tác PPP không chỉ là việc thực hiện dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mà còn là sự tác giữa Nhà nước với tư nhân để thực hiện tất cả các hoạt động cung ứng một dịch vụ công nào đó.

Đối với giáo dục đại học, tại nhiều quốc gia trên thế giới, việc huy động nguồn lực xã hội thông qua dự án PPP đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực, nhằm giảm thiểu áp lực cho Chính phủ, đồng thời là “đòn bẩy” để nâng cao chất lượng giáo dục của đất nước.

Thứ hai là còn có những vướng mắc về khung pháp lý liên quan đến PPP trong giáo dục. Hiện nay, khung pháp lý này chưa rõ ràng, còn thiếu vắng nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nhà đầu tư.

Ngay chính Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý, chẳng hạn như luật chỉ quy định hợp đồng dự án PPP cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng; trong khi đó, theo khái niệm về PPP, thì hợp tác trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo không chỉ là xây dựng cơ sở hạ tầng.

Bên cạnh đó, Luật PPP cũng quy định dự án PPP trong giáo dục phải có quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu không thấp hơn 100 tỷ đồng.

Những ràng buộc này gây khó khăn cho thực hiện PPP trong lĩnh vực giáo dục. Hiện nay, số dự án kêu gọi đầu tư ở các cơ sở giáo dục đại học tuy nhiều nhưng số dự án được nhà đầu tư quan tâm vẫn còn ít. Tổng mức đầu tư của các dự án chưa đáp ứng được theo quy định tại Luật PPP (tối thiểu 100 tỷ đồng) là khá nhiều.

"Ngay tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trong tổng số 15 dự án kêu gọi đầu tư thì có đến 8 dự án thu hút đầu tư, hợp tác từ các doanh nghiệp tư nhân với mức đầu tư từ 12 – 70 tỷ đồng. Mặc dù có các nhà đầu tư quan tâm, mong muốn hợp tác đầu tư, nhưng khi tham chiếu theo điều kiện của luật PPP thì không đảm bảo, dẫn đến không thể triển khai thực hiện” – Tiến sĩ Hưng cho biết.

Không chỉ có vậy, việc triển khai các dự án PPP trong giáo dục đang gặp phải khá nhiều khó khăn do tính thiếu thống nhất, đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật.

Các cơ sở giáo dục muốn sử dụng nguồn lực công của đơn vị để hợp tác với doanh nghiệp nhưng gặp vướng mắc do thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định của Luật PPP với Luật Đầu tư, Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Giáo dục, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ,…

Ngoài ra, hiện nay, cơ quan có thẩm quyền chưa xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện PPP trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, tương tự như Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện dự án theo PPP.

Thứ ba là vấn đề về tâm lý e ngại, ít muốn đầu tư PPP trong giáo dục của các nhà đầu tư. Bởi dù thế nào, mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp tư nhân vẫn là tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng khác với việc đầu tư vào các lĩnh vực khác, việc tìm kiếm lợi nhuận đầu tư trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam là không dễ dàng.

Mặt khác, khi có dự án được nhà đầu tư quan tâm thì tổng mức đầu tư quá cao, thời gian thu hồi vốn dài, lãi suất tiền vay để đầu tư không được ưu đãi, nên nhà đầu tư đánh giá mức độ khả thi về tài chính không cao, nhiều rủi ro. Từ đó nảy sinh tâm lý e ngại, ít muốn đầu tư.

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh minh họa. Nguồn: Website Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Để đầu tư theo phương thức đối tác công tư đạt hiệu quả, Tiến sĩ Hưng cho rằng, mối quan hệ giữa các cơ sở giáo dục đại học và nhà đầu tư cần phải xuất phát từ nhu cầu của các bên. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và thúc đẩy mối quan hệ này, để hợp tác PPP trở thành lựa chọn tốt, đảm bảo cho việc bổ sung nguồn lực đầu tư và cung ứng các dịch vụ đào tạo, phục vụ cộng đồng kịp thời, hiệu quả.

“Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền – cụ thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành có liên quan cần sớm xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật PPP trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo để việc triển khai thực hiện dự án PPP được thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả hơn.

Không chỉ có vậy, các cơ chế, chính sách PPP trong lĩnh vực giáo dục cần được xây dựng, sửa đổi, bổ sung theo hướng mở, tạo động lực để các cơ sở giáo dục đại học và nhà đầu tư cộng sinh, đồng hành với nhau. Trong đó, cần mở rộng phạm vi, bổ sung danh mục hợp tác PPP ngoài các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, phù hợp với “khẩu vị” của nhà đầu tư.

Đối với riêng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cần được thí điểm, định hướng trở thành cơ sở dẫn dắt, đi đầu về mô hình triển khai dự án PPP cho phát triển giáo dục đại học.

Theo đó, cơ chế, chính sách cần điều chỉnh theo hướng trao quyền cho Hội đồng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, quy định về quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu hoặc được áp dụng một phần cơ chế chính sách của Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trong thực hiện dự án đầu tư theo phương thức PPP” – Tiến sĩ Nguyễn Đình Hưng nêu đề xuất.

Kim Minh Châu