Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản số 7652/BGDĐT-GDPT gửi các sở giáo dục và đào tạo xin ý kiến góp ý dự thảo Hướng dẫn triển khai thí điểm nội dung giáo dục trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục phổ thông.

Khung nội dung được thiết kế tương ứng với hai giai đoạn giáo dục: Giai đoạn giáo dục cơ bản (bao gồm cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông). Khung nội dung được thiết kế xuyên suốt nhưng phân hóa rõ ràng theo tâm sinh lí lứa tuổi.

Đối với cấp tiểu học, học sinh chủ yếu trải nghiệm các ứng dụng AI đơn giản, trực quan để hình thành khái niệm ban đầu và nhận biết vai trò của AI trong cuộc sống. Các em được giáo dục về việc bảo vệ dữ liệu cá nhân và tôn trọng bản quyền.

Nhiều lãnh đạo trường tiểu học đánh giá khung nội dung nêu trong dự thảo được thiết kế theo hướng mở, linh hoạt và bám sát thực tế cuộc sống.

Kiến thức phù hợp, không làm “quá tải chương trình”

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Nguyễn Thị Thúy Minh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Chu Văn An (Hà Nội) cho biết, các yêu cầu năng lực trong dự thảo không phải là rào cản quá lớn đối với học sinh tiểu học, bởi phần lớn các em đã tiếp xúc với AI trong quá trình học tập hằng ngày.

“Những năm gần đây, giáo viên nhà trường đã chủ động sử dụng các công cụ AI để xây dựng bài giảng, tạo hình ảnh minh họa, video mô phỏng, nhân vật dẫn chuyện hay các tình huống tương tác giúp bài học sinh động hơn. Việc này giúp học sinh hình thành tâm thế quen thuộc với công nghệ trước cả khi AI được đưa vào chương trình phổ thông.

Chính thực tiễn đó giúp khung năng lực AI của Bộ Giáo dục và Đào tạo gồm hiểu biết nền tảng, ứng dụng đơn giản và nhận thức về an toàn dữ liệu trở nên “vừa tầm” với học sinh tiểu học. Ở cấp học này, các em chủ yếu trải nghiệm AI như một công cụ hỗ trợ học tập. Vì vậy, việc dự thảo yêu cầu học sinh bước đầu nhận diện vai trò của AI, hiểu được nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân và tôn trọng bản quyền là hoàn toàn phù hợp với thực tế dạy học ở trường. Ngoài ra, việc giáo viên đã quen sử dụng AI trong giảng dạy tạo ra lợi thế đáng kể khi triển khai khung năng lực mới, giúp nhà trường tránh được những xáo trộn không cần thiết.

Sự chủ động này cũng giúp học sinh tiếp cận AI một cách tự nhiên, không áp lực, đúng tinh thần của giai đoạn “làm quen với AI”. Đây được xem là bước đi phù hợp với mục tiêu dài hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo là đưa AI vào trường học không phải để tăng thêm gánh nặng kiến thức mà để hình thành tư duy công nghệ từ sớm, làm nền tảng cho việc học chuyên sâu hơn ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông”, cô Thúy Minh cho hay.

thuy-minh.jpg
Cô Nguyễn Thị Thúy Minh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Chu Văn An (Hà Nội). Ảnh: Website nhà trường.

Còn theo cô Trần Thị Bích Hạnh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ) cho biết, việc tiếp cận các nội dung về công nghệ và chuyển đổi số không còn là điều mới mẻ đối với nhà trường. Trong nhiều năm qua, từ các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Phú Thọ cũng như nhiệm vụ năm học đều nhấn mạnh yêu cầu số hoá và ứng dụng công nghệ trong dạy học. Vì vậy, khi dự thảo khung năng lực AI được đưa ra, nhà trường đã có nền tảng nhất định để triển khai.

“Tại Trường Tiểu học Thị trấn Hạ Hòa, giáo viên đã bắt đầu ứng dụng nhiều công cụ AI vào bài giảng. Gần như 100% các tiết học đều được lồng ghép AI một cách vừa phải, hợp lý, từ khâu giới thiệu bài, giao nhiệm vụ đến tạo hình ảnh động để tăng hứng thú cho học sinh.

Đối với học sinh tiểu học, việc bước đầu làm quen với trí tuệ nhân tạo thông qua các hoạt động học tập, vui chơi và trải nghiệm được đánh giá là hoàn toàn phù hợp. Ở lứa tuổi này, các em không tiếp cận AI theo hướng hàn lâm hay kỹ thuật cao mà thông qua những tình huống quen thuộc, gần gũi.

Qua đó, học sinh được giới thiệu các khái niệm cơ bản về AI, hiểu những lợi ích mà công nghệ mang lại cũng như nhận diện những rủi ro có thể gặp phải khi sử dụng. Đây là bước quan trọng giúp các em hình thành thói quen dùng thiết bị và ứng dụng AI một cách an toàn, có trách nhiệm - nền tảng thiết yếu trong môi trường số hiện nay”, cô Hạnh nhận định.

hs-ha-hoa.jpg
Học sinh Trường Tiểu học Thị trấn Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ) trong giờ học thực hành với máy tính. Ảnh: NVCC.

Theo cô Hạnh, việc ứng dụng AI trong dạy học không nhằm thay thế vai trò của giáo viên hay học sinh, mà để hỗ trợ quá trình giảng dạy trở nên sinh động và trực quan hơn. Ở cấp tiểu học, nơi khả năng tập trung và tư duy của học sinh còn đang phát triển, việc sử dụng các công cụ AI một cách đơn giản, phù hợp và đúng mức sẽ giúp tăng hứng thú học tập, hỗ trợ giáo viên minh hoạ bài học tốt hơn, đồng thời khuyến khích học sinh khám phá kiến thức một cách tự nhiên và hứng khởi.

Lồng ghép vào hoạt động trải nghiệm là phương án khả thi

Theo dự thảo, căn cứ vào khung nội dung AI, điều kiện thực tiễn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, nhu cầu và năng lực của học sinh, các cơ sở giáo dục chủ động lựa chọn một kết hợp các hình thức gồm: thực hiện lồng ghép trong các môn học, hoạt động giáo dục thuộc chương trình giáo dục phổ thông; thực hiện theo chuyên đề học tập lựa chọn hoặc chủ đề độc lập; tổ chức dạy học tăng cường, câu lạc bộ, ngoại khóa.

Theo cô Trần Thị Bích Hạnh, đối với ba phương án tổ chức dạy học, hình thức tích hợp vào hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là khả thi nhất. Bởi lẽ, chương trình giáo dục phổ thông 2018 quy định môn Tin học bắt đầu được giảng dạy cho học sinh từ lớp 3 và là môn học bắt buộc. Điều đó đồng nghĩa với việc học sinh khối 1 và khối 2 sẽ không có cơ hội tiếp cận nội dung liên quan đến AI nếu chỉ gói gọn trong môn học này.

“Từ thực tế giảng dạy tại trường, tôi cho rằng việc lồng ghép kiến thức về AI vào các tiết hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp sẽ phù hợp nhất. Hoạt động trải nghiệm là môn học bắt buộc ở tất cả các khối lớp trong cấp tiểu học, với đặc trưng linh hoạt, chú trọng hình thành năng lực và kỹ năng thông qua các tình huống thực tiễn.

Nếu nội dung về AI được thiết kế như một chủ đề trong môn học này, học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 đều có cơ hội tiếp cận đồng đều, không phụ thuộc vào điều kiện nhân sự giáo viên môn Tin học của từng trường. Cách tiếp cận này cũng giúp giáo viên dễ dàng tổ chức các hoạt động trải nghiệm như quan sát, chơi và học, khám phá tình huống, từ đó đưa khái niệm AI trở nên gần gũi, phù hợp với nhận thức của học sinh nhỏ tuổi”, cô Hạnh cho hay.

bich-hanh.jpg
Cô Trần Thị Bích Hạnh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thị trấn Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ). Ảnh: NVCC.

Đồng quan điểm, cô Ngô Uyên - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hợp Giang (tỉnh Cao Bằng) nhấn mạnh, ở lứa tuổi tiểu học, mọi nội dung đưa vào chương trình học phải đáp ứng nguyên tắc “dễ hiểu - dễ nhớ - dễ vận dụng”. Học sinh cần được tiếp cận AI thông qua hình ảnh, thao tác, trò chơi học tập hoặc các tình huống gắn với đời sống chứ không phải qua các khái niệm trừu tượng hay lý thuyết nặng nề. Nếu nội dung vượt quá tầm nhận thức, các em sẽ không chỉ khó tiếp thu mà còn dễ phụ thuộc vào AI như một cái máy, mất đi động lực tự học.

Thực tế, điều kiện triển khai ở các địa phương còn có sự chênh lệch lớn: nhiều trường có giáo viên trẻ, am hiểu công nghệ nhưng cũng không ít nơi giáo viên còn lúng túng với công cụ số; thiết bị dạy học, kết nối mạng và phòng chức năng cũng không đồng đều giữa thành phố và khu vực nông thôn. Vì vậy, theo cô Uyên, bất kỳ nội dung mới nào liên quan đến AI đều phải được đưa vào bằng con đường ít gây áp lực nhất, cả với giáo viên lẫn học sinh.

Trong bối cảnh đó, việc tích hợp AI vào các tiết hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được xem là lựa chọn hợp lý nhất. Cách làm này vừa tránh làm xáo trộn chương trình các môn học hiện hành, vừa đảm bảo 100% học sinh đều có cơ hội tiếp cận. Hoạt động trải nghiệm vốn có tính linh hoạt cao, cho phép giáo viên tổ chức các tình huống thực hành như nhận diện AI trong cuộc sống, thử nghiệm các ứng dụng đơn giản, thảo luận về an toàn dữ liệu - những nội dung phù hợp với năng lực nhận thức của trẻ nhỏ.

Như vậy, AI được đưa vào trường học theo cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không áp lực thành tích, không tạo thêm gánh nặng cho giáo viên, học sinh và quan trọng nhất là phù hợp với điều kiện thực tế của từng nhà trường. Đây cũng là hướng tiếp cận giúp đảm bảo sự công bằng trong giáo dục số.

Thúy Hiền