Lớp học nửa chìm nửa nổi ở Quảng Bình

05/08/2018 07:34
Bài và ảnh: Thủy Phan
(GDVN) - Thời kỳ chiến tranh khốc liệt, dù nhiều lần phải sơ tán, di chuyển địa điểm nhưng lớp Toán đặc biệt vẫn được duy trì.

Lớp học nửa chìm nửa nổi

Lớp Toán đặc biệt là tên của lớp phổ thông năng khiếu về Toán trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ được Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương mở lớp.

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những người đầu tiên phụ trách và học lớp Toán này vẫn nhớ như in từng chút kỷ niệm về giai đoạn khó khăn đó.

Ông Nguyễn Chất (83 tuổi) – Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình là một trong những người đầu tiên tiếp cận lớp Toán đặc biệt.

Ông Nguyễn Chất - Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình là một trong những người đầu tiên tiếp cận lớp Toán đặc biệt.
Ông Nguyễn Chất - Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình là một trong những người đầu tiên tiếp cận lớp Toán đặc biệt.

Ông Chất kể, giữa tháng 8/1965, để triển khai nhiệm vụ năm học mới trong điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ lan rộng, Bộ Giáo dục và Đào tạo triệu tập hội nghị có Sở, Ty giáo dục 28 tỉnh miền Bắc về Hà Nội quán triệt.

Lúc đó, ông Chất giữ chức tổ trưởng tổ chuyên môn của Ty Giáo dục Quảng Bình nên được cử ra Hà Nội để dự hội nghị này.

Tại hội nghị, Bộ Giáo dục chủ trương cho các tỉnh trên toàn miền Bắc mỗi tỉnh mở một lớp năng khiếu về Toán, bắt đầu từ cấp 3, gọi chung là lớp Toán đặc biệt.

Học sinh được chọn vào lớp Toán đặc biệt này là những học sinh giỏi Toán cấp 2, có điểm thi tốt nghiệp môn Toán đạt loại giỏi, đồng thời có kết quả tổng kết học kỳ 1 lớp 8 đạt loại giỏi.

“Đầu năm 1966, quán triệt tinh thần hội nghị của Bộ Giáo dục, lãnh đạo tỉnh Quảng Bình đã quyết định mở lớp chuyên Toán đặc biệt với số lượng 34 học sinh.

Lớp Toán đặc biệt đầu tiên của Quảng Bình đặt tại trường cấp 3 Quảng Bình, lúc đó sơ tán lên xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh”, ông Chất cho biết.

Ông Nguyễn Đăng Vinh, khi đó là lớp trưởng lớp Toán đặc biệt vẫn nhớ rất rõ về lớp học ngày ấy.

Ông kể rằng, lớp học lúc đó là một ngôi nhà hầm nửa nổi, nửa chìm, đặt trên khoảnh đất lưng chừng sườn đồi cạnh làng.

Một đường hào sâu chạy từ đường thôn vào lớp học và thông xuống chân đồi. Những ngày mưa gió, nước chảy xuống hầm, chỉ có bục giảng khô ráo để phục vụ cho việc dạy học, còn học sinh ngồi học, hai chân vẫn ngâm dưới bùn đất.

“Dù khó khăn như vậy, tinh thần học tập của chúng tôi vẫn rất tốt. Bao nhiêu ước mơ cũng được vun vén từ trong chính bom đạn chiến tranh và sự chật vật của cuộc sống xa nhà”, ông Vinh nhớ lại.

Ông Nguyễn Đăng Vinh – lớp trưởng lớp Toán đặc biệt ngày ấy.
Ông Nguyễn Đăng Vinh – lớp trưởng lớp Toán đặc biệt ngày ấy.

Theo ông Vinh, những ngày đầu thành lập lớp, 34 học sinh được phân về ở tại các nhà dân thuộc thôn Bến, xã Vạn Ninh.

Đến năm 1968, chiến tranh ngày càng ác liệt, tỉnh Quảng Bình đã chủ trương di chuyển, sơ tán các trường cấp 3 ở vùng trọng điểm địch đánh phá đến các vùng an toàn, các xã miền núi xa xôi.

Cùng với học sinh của các lớp khác thuộc Trường cấp 3 Quảng Bình, lớp Toán đặc biệt được sơ tán lên huyện miền núi Minh Hóa.

Quãng đường di chuyển lớp học rất dài và gian nan, phải mất 3 ngày mới đến nơi. Những ngày di chuyển từ Vạn Ninh ra đến Minh Hóa là quãng thời gian khó quên đối với các học sinh thời đó.

Mỗi giây phút trên chuyến hành trình đặc biệt, thầy và trò luôn phải đối mặt với hiểm nguy, bom đạn ngày đêm rình rập.

Dọc đường đi, họ đã tận mắt chứng kiến những cánh rừng bị bom đạn cày nát, rải rác hai bên đường là xác những chiếc xe bị bom dội khét lẹt, đen trùi trũi đến đáng sợ.

Những đôi chân trần cứ mải miết đi giữa những cung đường đầy vết tích bom đạn, đi giữa những đoạn đường rừng hiểm trở, giữa cát bỏng nắng cháy.

Vừa học vừa tránh bom đạn

Sau những ngày hết đi bộ hàng chục cây số rồi trên những chuyến ô tô dằn xóc, họ cũng đã đến được địa điểm mới của trường.

Lớp học nửa chìm nửa nổi ở Quảng Bình ảnh 3Lớp học đặc biệt giữa lòng thành phố Cảng

Đó là một thung lũng rộng thuộc xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa. Cuộc sống và việc học tại vùng sơ tán bắt đầu từ đó. 

Tại đây, học sinh được bố trí ở rải rác trong dân, mỗi nhà 2 – 3 người hoặc nhiều hơn. Sau khi ổn định ăn ở, các học sinh dồn sức dựng lớp học, người chặt gỗ, người bứt tranh, người đào đất.

Bàn học ở đây là những cây gỗ to bằng bắp tay kết lại làm khung, giữa đan cây con làm mặt bàn. Còn ghế ngồi là những than cây to, đẽo phẳng một mặt…

Lớp học sơ tán được dựng trên khoảng đất hoang, xa dân, cách nơi ở khoảng gần 1 cây số.

“Tết Mậu Thân năm 1968, cả lớp ăn tết với dân ở Xuân Hóa. Lần đầu tiên ăn tết ở xa, ai cũng nhớ nhà, nhưng việc học hành cùng những khó khăn đã cuốn đi cái nhớ nhung đó.

Tết ở đó là một cái tết đơn sơ nhưng rất đầm ấm, mọi người được ăn món bồi nếp, đặc sản của dân Minh Hóa”, ông Vinh kể lại.

Ông Vinh cũng cho biết, dù khó khăn như vậy nhưng tinh thần học tập của lớp rất cao và lúc nào cũng tạo nên một không khí thi đua sôi nổi.

Ngoài nguồn sách giáo khoa, nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là tờ “Toán học và tuổi trẻ”. Báo về tận tay đều đặn mỗi tháng và trở thành tài liệu gối đầu giường của mỗi học sinh.

Mỗi giờ đến lớp, dù phải luôn trong tư thế sẵn sàng tránh trú bom đạn giặc Mỹ nhưng buổi học nào cũng là những giờ phút tranh luận sôi nổi về những bài giải hay, những bài toán khó.

Trong ba năm học, do chiến tranh và cuộc sống khó khăn, nhiều học sinh đã không thể bám trụ cho đến cuối cấp học. Ngày ra trường, lớp Toán đặc biệt chỉ còn lại 24 học sinh và tất cả đều tốt nghiệp.

Năm 1968, do chiến tranh nên Bộ Giáo dục không tổ chức thi đại học. Những người tốt nghiệp được sắp xếp ra nước ngoài học đại học hoặc học trong nước, cũng có người được xếp học tại trường trung cấp sư phạm do tỉnh đào tạo cấp tốc.

Lớp học nửa chìm nửa nổi ở Quảng Bình ảnh 4Lớp học đặc biệt nhất Thủ đô của cụ bà 80 tuổi

Lớp Toán đặc biệt ở Quảng Bình thời đó có 8 học sinh được chọn đi học nước ngoài đợt 1.

Đợt 2 đi học Liên Xô có một số đã được công bố danh sách nhưng do biến động cuộc nhảy dù đổ quân Liên Xô vào Tiệp khắc nên đã bị dừng lại, sau đó số này được chuyển vào học đại học trong nước.

Một số khác nhập ngũ ngay khi trở về quê hương, trong số đó có người đã mãi mãi nằm lại trên chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ.

Đến nay, những học sinh của lớp Toán đặc biệt năm nào nay đều đã quá tuổi 70, người còn, người mất.

Trong số những học sinh ra trường ngày ấy, nay đã có 2 phó giáo sư, tiến sỹ, 4 tiến sỹ, 2 thạc sỹ, 1 nhà văn, số còn lại đều tốt nghiệp tại các trường đại học lớn.

Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Viết Ngư, nguyên Phó giám đốc Đại học Huế, nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Đại cương Huế là tác giả của năm đầu sách về toán do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành.

Phó giáo sư, tiến sỹ Trương Quang Hiếu, giảng viên Trường đại học Mỏ - Địa chất cũng là tác giả của ba đầu sách nổi tiếng về toán học. Số còn lại đều giảng dạy và công tác tại các cơ quan, trường học.

Năm 2017, sau hơn nửa thế kỷ, những học sinh lớp Toán đặc biệt năm nào gặp lại nhau. Qua bao thăng trầm của đời người, ký ức ngày nào trong họ vẫn vẹn nguyên.

Họ quyết định lấy ngày 13/7 hàng năm là ngày kỷ niệm ra đời lớp chuyên Toán đầu tiên của Quảng Bình với mong muốn tỉnh quyết định công nhận mốc lịch sử dạy và học chuyên của tỉnh nhà là năm 1965.

Những học sinh của lớp Toán đặc biệt đầu tiên gặp lại nhau sau hơn nửa thế kỷ xa cách.
Những học sinh của lớp Toán đặc biệt đầu tiên gặp lại nhau sau hơn nửa thế kỷ xa cách.

Hiện Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Bình đã thông qua thông báo về việc công nhận mốc thời gian hình thành, phát triển hệ chuyên toán và hệ chuyên tỉnh Quảng Bình.

Theo đó, lớp học sinh có năng khiếu về toán năm học 1965 -1966 là lớp chuyên toán đầu tiên của tỉnh Quảng Bình. Đồng thời công nhận mốc hình thành, phát triển hệ chuyên toán và hệ chuyên của tỉnh Quảng Bình là năm 1965.

Ông Nguyễn Chất – Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình cho biết:“Thời đó gian khổ lắm, chiến tranh ác liệt nhưng lớp chuyên Toán vẫn duy trì và mở thêm lớp.

Bây giờ, ngành giáo dục tỉnh nhà nên đưa lớp Toán đặc biệt đầu tiên này vào lịch sử ngành, để các thế hệ mai sau có thể hiểu và biết rõ hơn”.

Bài và ảnh: Thủy Phan